How to grasp the reality? Làm sao hiểu được thực tại?

1

Science is good, but be aware with pseudo-scientific theories like Darwin’s evolutionism. Moreover, science is not the only knowledge to understand the world. It can never answer the question “what is the nature of reality?”. Philosophy, intuition and religious faith may help us to find the answer… That’s Thiên Lâm’s comments on PVHg’s Home.

Khoa học thì tốt đấy, nhưng hãy cảnh giác với những lý thuyết ngụy khoa học như Thuyết Tiến hóa của Darwin. Hơn nữa, khoa học không phải kiến thức duy nhất để hiểu thế giới. Nó không bao giờ trả lời được câu hỏi “bản chất thực tại là gì?”. Triết học, trực giác và đức tin tôn giáo có thể giúp chúng ta tìm ra câu trả lời… Đó là những bình luận của Thiên Lâm trên PVHg’s Home.

IMMANUEL KANT VẠCH TRẦN THÓI TỰ PHỤ TRÍ THỨC CỦA THỜI ĐẠI KHAI SÁNG

Bài viết của Thiên Lâm

“Ngụy Khoa học”, tôi thích từ này khi nhận định về Thuyết tiến hóa của Darwin. Nghe như “Ngụy quân tử” trong truyện Kim Dung. Mà thực chất đúng là như vậy, bản chất Thuyết tiến hóa không phải là một lý thuyết khoa học đúng nghĩa. Nó là một học thuyết khoác danh khoa học, được giới vô thần tán thưởng và tận dụng để hạ bệ Thượng Đế. Nhưng điều này phản lại chính nó, vì nó bị những người có đức tin chống lại, hơn nữa, sự hạ bệ đó đẩy nó vào tình thế buộc phải đưa ra những giả thuyết để giải thích sự sống, nhưng những giải thuyết đó đều vô căn cứ.

Một cuộc thăm dò ở Hoa Kỳ vào năm 2001 cho thấy 45% những người được hỏi đồng ý rằng “Thiên Chúa dựng nên con người tại một thời điểm nào đó có hình dáng giống như hình dáng con người hiện nay”. Các cuộc thăm dò tương tự trên hai thập niên qua cho thấy không có sự thay đổi đáng kể trong quan niệm của quần chúng. Các con số này làm cho nhiều nhà khoa học vô thần bàng hoàng và tức tối, đến nỗi có người phát điên lên kết tội đám quần chúng này là “lũ quê mùa ngu dốt ở trạng thái con bò”, dám bướng bỉnh chống lại thuyết tiến hóa, đến bây giờ mà vẫn chưa chịu chấp nhận trái đất hình tròn. Nhưng bất chấp sự tức tối ấy, nửa dân số Hoa Kỳ vẫn không tin vào Thuyết Tiến hóa!

Chúng ta biết rằng trên một nửa thế kỷ, những người theo thuyết Darwin dùng các ý tưởng về “Chọn lọc tự nhiên” và “sự sống sót của cái thích nghi nhất” để biện minh cho các chính sách kỳ thị dã man, như thuyết ưu sinh (eugenic), luật bài trừ di dân, nạn phân biệt chủng tộc, và chính sách bắt buộc phải vô hiệu hóa khả năng sinh sản. Hitler cũng chủ trương thuyết Darwin xã hội để thực hiện cuộc chiến tranh thế giới và tàn sát người Do Thái. Họ dùng thuyết này cho mục đích ý thức hệ và hậu quả của nó khủng khiếp thế nào ai cũng thấy rồi.

Nhà sinh vật học William Province rêu rao rằng “sự tiến hóa là phương tiện vĩ đại nhất của chủ thuyết vô thần”

Darwin's_Dangerous_Idea_(first_edition)Hình bên: Sách “Darwin’s Dangerous Idea” (Tư tưởng nguy hiểm của Darwin) của Daniel C. Dennett

Như vậy, trong thuyết tiến hóa có động lực bài trừ tôn giáo, và đây là lý do chính mà nhiều người Hoa Kỳ không muốn chấp nhận học thuyết này. Họ coi thuyết Darwin là thuyết vô thần giả dạng khoa học. Hò còn nghi ngờ rằng thuyết Darwin đang được sử dụng để làm suy yếu tôn giáo và luân lý đạo đức truyền thống. Nhiều phụ huynh lo rằng con cái họ khi vào đại học là những tín hữu Kitô đạo đức tử tế, nhưng khi tốt nghiệp chúng lại mất đức tin và theo chủ thuyết trần tục với nền luân lý và đạo đức băng hoại. Những lo lắng này của họ là có cơ sở.

Thứ nhất, khoa học không phải là chân lý và kiến thức duy nhất để tìm hiểu thế giới. Nói cách khác, nếu chỉ dùng khoa học thì không thể trả lời được câu hỏi “ Bản chất của thực tại là gì?”, vì khoa học chỉ là một nhánh để miêu tả thực tại.

Nhà vật lý John Polkinghorne đưa ra thí dụ như sau. Nếu bạn hỏi một nhà khoa học, “ Tại sao trời lại mưa?” họ sẽ trả lời cho bạn, nước từ trạng thái thể lỏng chuyển thành thể khí rồi ngưng tụ sau đó trở lại trạng thái lỏng. Hoặc như câu hỏi “Tại sao nước lại sôi?” thì nhà khoa học sẽ trả lời cho bạn về phương diện nhiệt độ, phân tử, lực liên kết. Nhưng còn một cách giải thích thứ hai: Trời mưa là để cho cây cối phát triển, để cho muôn loài và con người sinh sống, nếu không có mưa thì sẽ chẳng có gì có thể sống được.

Hoặc, nước sôi là vì tôi muốn có một tách trà.

Sự giải thích thứ hai là một diễn tả THỰC TẾ CÓ GIÁ TRỊ CHẮC CHẮN, không hề mơ hồ. Tuy nhiên bị bỏ qua và tránh né bởi khoa học. Lý do của điểu này, nhà toán học Roger Penrose viết, vì khoa học không thể trả lời câu hỏi về bản chất hay mục đích của thực thể. Khoa học chỉ trả lời cho câu hỏi “Nó hoạt động như thế nào?”. Do đó, khoa học không thể là một diễn tả đầy đủ về thực tại, khoa học chỉ là một khía cạnh của thực tại mà thôi.

Thứ hai, ngay cả khi khoa học là sự miêu tả một khía cạnh của thực tại thì sự miêu tả này cũng chỉ tương đối và không bao giờ đầy đủ. Điều này đã được chứng minh hùng hồn bởi Định lý Bất toàn trong toán học, Nguyên lý Bất định trong vật lý, và bởi triết học của Kant.

E.O Wilson viết “Bên ngoài chúng ta là một thực tại độc lập, trong khi bên trong cái đầu chúng ta là một sự khôi phục lại thực tại được dựa trên dữ kiện giác quan và sự tổng hợp các ý niệm.”

Những người vô thần ở thời đại Khai Sáng cho rằng phương pháp tiếp cận hợp lý bằng khoa học của họ đem lại cho họ sự hiểu biết đầy đủ về thực tại bên ngoài. Đó là một ngộ nhận, và sự ngộ nhận này đem lại cho chủ thuyết vô thần đặc tính kiêu ngạo.

Dùng lý luận trên nền tảng được người vô thần sử dụng, nền tảng kinh nghiệm và chỉ có lý lẽ, Immanuel Kant đã đánh sập quan điểm này. Là một người của khoa học và là một trong những nhà triết học lớn nhất của mọi thời đại, ông cho thấy điều đó chỉ là “ảo tưởng khai sáng”. Đây chính là ảo tưởng đã đánh lừa nhiều người vô thần. Ảo tưởng khai sáng cho rằng, trên nguyên tắc, lý lẽ con người và khoa học dần dà có thể hiểu được toàn thể thực tai.

Kant khởi sự với một thừa nhận đơn giản: Mọi hiểu biết của con người được dựa trên kinh nghiệm. Chúng ta hiểu được thực tại thông qua các giác quan. Dữ kiện thuộc giác quan này sau đó được xử lý trong bộ óc và hệ thần kinh trung ương. Mọi ý nghĩ, ngay cả các sản phẩm điên rồ nhất của óc tưởng tượng đều chỉ được dựa trên những gì chúng ta nghe, thấy, sở, ngửi, nếm. Đó là một dữ kiện do kinh nghiệm mà ngũ quan chúng ta là các lăng kính duy nhất để tiếp nhận thực tại.

Hãy tưởng tượng khi chúng ta nói chuyện với một người mù bẩm sinh, chúng ta miêu tả cho họ về màu sắc và chắc chắn họ sẽ không thể biết màu sắc nó là cái gì, ví dụ khi ta miều tả màu vàng cho họ, ta chỉ có thể dùng một loạt các phủ định như màu vàng không vuông, không tròn, không nóng, không lạnh, không nhẵn, không sần sùi, không mặn, không nhạt… Người mù sẽ dựa trên các dữ kiện ta cung cấp để tổng hợp nhưng chắc chắn một điều không bao giờ họ biết chính xác màu vàng là gì? Cái mà ta biết và cho là bình thường thì họ không bao giờ hiểu được. Đó là vì một giác quan thị giác của họ đã bị mất.

Bây giờ Kant hỏi một câu kinh ngạc: Làm thế nào chúng ta biết rằng sự nhận biết thực tại của con người phản ánh đúng cái thực tại bên ngoài? Làm thế nào chúng ta biết chắc là 5 giác quan của con người là đầy đủ để nhận biết thực tại?

Hầu hết các triết gia trước thời Kant chỉ chấp nhận nó như thế và sự tin tưởng này vẫn còn liên quan đến ngày nay.

Câu hỏi nghi vấn của Kant về độ tin cậy của nhận thức con người đã trở thành nỗi ám ảnh của triết học Tây Phương kể từ thời Descartes. Triết gia Locke đã nổi tiếng vạch ra rằng vật thể dường như có hai đặc tính, mà ông gọi là đặc tính chính và đặc tính phụ. Đặc tính chính thì ở trong sự vật, trong khi đặc tính phụ thì ở trong nhận thức của chúng ta. Thí dụ, khi chúng ta nhận biết một trái táo, hình dạng và khối lượng được xem là phần chính trái táo. Nhưng Locke vạch ra rằng mầu đỏ và hương vị của trái táo thì không ở trong trái táo. Chúng ở trong người đang nhìn, ngửi, cắn trái táo. Có người thấy trái táo đỏ nhưng người khác thì thấy nó đỏ lòm, hay hơi đỏ, hoặc như người mù màu thì chẳng thấy nó đỏ gì cả. Người thì thấy trái táo ngọt, nhưng người khác lại thấy nó chát…

Điều này có nghĩa, sự hiểu biết thực tại bên ngoài đến với chúng ta từ hai nguồn: Sự vật bên ngoài và sự nhận biết bên trong chúng ta.

Thực tại không trực tiếp đến với chúng ta nhưng được “tinh lọc” qua một lăng kính của chính chúng ta.

Triết gia George Berkeley nói: “Khi chúng ta cố gắng hết sức để lĩnh hội sự hiện hữu của các vật bề ngoài, thực ra chúng ta chỉ trầm tư về ý nghĩ của mình”. Chúng ta không có kinh nghiệm nào về vật thể nằm bên ngoài sự nhận biết của tâm trí và giác quan của chúng ta. Chúng ta không cảm nghiệm được đại dương, chúng ta chỉ cảm nghiệm hình ảnh, âm thanh và cảm giác về đại dương. David Hume áp dụng lý luận có tính cách hoài nghi của Berkeley vào chính con người: Chúng ta không có kinh nghiệm gì về chính chúng ta hơn là các cảm giác và cảm xúc tư tưởng của chính mình.

Kant thừa nhận quan điểm của Berkeley và Hume. Ông bảo rằng, thật là vô lý khi thừa nhận rằng cảm nghiệm về thực thể của chúng ta chính là thực thể ấy. Có những điều trong chính nó, mà Kant gọi là vật tự thể, và chúng ta không biết gì về chúng. Ngay cả thuộc tính không gian thời gian cũng thuộc về kinh nghiệm của chúng ta. Bản thân vật tự thể có không gian hay thời gian hay không là điều chúng ta không thể biết được. Điều chúng ta có thể biết là cảm nghiệm của chúng ta về sự vật ấy, điều đó Kant gọi là hiện tượng.

Nếu bạn có con chó ở nhà, bạn biết nó như thế nào khi nhìn, nghe, đùa giỡn với nó. Đây là cảm nghiệm có tính cách hiện tượng của bạn về con chó. Nhưng là một con chó thì như thế nào? Loài người chúng ta không bao giờ biết được. Con chó, chính nó là một sự vật được giấu kín khỏi chúng ta. Kant cho chúng ta biết rằng, sự hiểu biết của con người bị giới hạn không chỉ bởi thực tại nhiều ít ở bên ngoài, nhưng còn bởi sự nhận biết thuộc giác quan giới hạn của chúng ta đới với thực tại.

Hãy nghĩ đến máy thu âm. Chính nó là một loại dụng cụ chỉ có thể ghi nhận được một loại hay một khía cạnh của thực tại: âm thanh. Trong ý nghĩa này, máy thu âm có thể “nghe” nhưng không thể thấy hay sờ hay ngửi. Như vậy mọi khía cạnh của thực tại mà không thể ghi nhận bằng âm thanh thì nằm ngoài lãnh vực của một máy ghi âm. Kant nói, con người cũng vậy, chúng ta chỉ có thể lĩnh hội thực tại qua 5 giác quan. Nếu máy ghi âm có thể lĩnh hội thực tại trong một kiểu, con người có thể nhận biết thực tại qua 5 kiểu khác nhau. Không còn cách nào khác để chúng ta cảm nghiệm thực tại.

Kant không làm giảm bớt tầm quan trọng của thế giới hiện tượng, nhưng đó là tất cả những gì chúng ta có thể tiếp cận. Và con người dùng khoa học và lý lẽ như là một phương pháp để khám phá các nguyên tắc hoạt động của nó. Là một khoa học gia, toán học, triết học, ông không làm giảm giá trị của khoa học. Nhưng ông cho thấy rằng, khoa học phải được áp dụng đối với thế giới hiện tượng, chứ không phải đối với thực thể.

immanuel kantVới Kant, hiển nhiên vật tự thể hiện hữu bởi vì nó đã phát sinh ra thế giới hiện tượng mà chúng ta cảm nghiệm. Kant đồng ý rằng có nhiều dữ kiện chắc chắn về thế giới này, như luân lý và tự do ý chí, mà không thể hiểu được nếu không công nhận khái niệm vật tự thể. Có lẽ cách tốt nhất để hiểu điều này là phải nhìn Kant đưa ra hai loại thực tại: Thực tại mà chúng ta cảm nghiệm và chính thực tại. Điều quan trọng không phải là xác định cái nào thực hơn, nhưng là để nhận biết rằng lý lẽ con người chỉ hoạt động trong lãnh vực hiện tượng của cảm nghiệm. Chúng ta có thể biết rằng vật tự thể hiện hữu, nhưng ngoài điều đó ra chúng ta không biết gì hơn. Lý lẽ con người không thể thấu hiểu được chính thực tại.

Kant đã tạo ra một cuộc cách mạng trong sự hiểu biết của con người. Một số người chống đối ông và thử trả lời lý lẻ của ông. Họ nói, Kant không thể đúng khi nói chúng ta không tiếp cận được thực tại, bởi vì bạn và tôi và mọi người khác cảm nghiệm cùng một thực tại. Khi chúng ta trong cùng căn phòng, chúng ta thấy cùng cái đèn, cái bàn. Hiển nhiên chúng phải hiện hữu và chúng ta phải có thể tiếp cận với chúng. Nhưng câu trả lời của Kant là bởi vì chúng ta đều là con người, chúng ta có cùng giác quan, và nó hoạt động giống nhau ở mỗi người. Bởi đó chúng ta có cùng một cảm nghiệm, nhưng cảm nghiệm là tất cả những gì chúng ta có.

Một nhà sinh học thử một chiến thuật khác để bác lý lẽ của Kant. Ông nói, khoa học đem lại cho chúng ta các cảm nhận mới mà chúng có thể giúp chúng ta vượt ra ngoài những giới hạn của nhận thức. “Với sự trợ giúp của các dụng cụ thích hợp, chúng ta có thể nhìn thế giới với đôi mắt của con bướm”. Với kỹ thuật chụp ảnh hồng ngoại, chúng ta có thể cảm nghiệm thế giới giống như kiểu cách của một con dơi. Cá liên lạc với nhau qua những chuỗi mã số điện. Các nhà động vật học, nhờ sử dụng máy móc, có thể cùng trò chuyện với chúng.

Kant, trả lời rằng, phải, chúng ta có thể sử dụng kỹ thuật nhiếp ảnh ban đêm, nhưng chúng ta vẫn nhìn hình ảnh với con mắt loài người. Phải, chúng ta có thể dùng máy móc, nhưng chúng ta vẫn dùng đến ngũ quan để đọc, nghe , giải thích những gì máy móc thấy. Nói cách khác, dụng cụ nhận biết của con người là điều kiện cho toàn thể lãnh vực cảm nghiệm của chúng ta, và điều này luôn luôn là như vậy và tiếp tục như vậy một khi chúng ta là con người. Các khám phá khoa học tương lai không thể thay đổi các giới hạn này vì các khám phá đó sẽ được cảm nghiệm qua dụng cụ nhận biết hạn hẹp của con người, điều này là giới hạn và là bản chất của con người.

Kant đã đưa chúng ta tới mức giới hạn của lý trí. Từ đó chúng ta cần đến một hướng dẫn khác nữa, nhưng Kant đã giúp khai thông con đường phải theo. Nhà xã hội học Peter Berger viết: “Động lực tôn giáo, việc đi tìm ý nghĩa của nó vượt trên không gian hạn hẹp của cảm nghiệm trong thế giới này, từng là một đặc điểm vĩnh viễn của con người”. Bây giờ Kant đem lại cho niềm tin tôn giáo này một nền tảng hợp lý và hoàn toàn hiện đại.

Kant đã hoàn thành việc vạch trần thái độ tự phụ trí thức của thời đại Khai Sáng – cái tự phụ cho rằng lý lẽ và khoa học là con đường duy nhất đến với thực tại và chân lý. Ngày nay, nhiều người vẫn có ảo tưởng này. Những nhà khoa học này có thể vênh váo, nhưng Kant cho thấy họ trần truồng về tri thức. Giờ đây, người vô thần được cho thấy là độc đoán và kiêu căng, trong khi các tín đồ tôn giáo xuất hiện một cách khiêm tốn. Trong khi người vô thần bướng bỉnh một cách ngạo mạn, với ảo tưởng cho rằng lý lẽ của họ hoàn toàn có khả năng suy đoán đươc mọi sự thật, thì người tín hữu khiêm tốn trong giới hạn của con người, vì họ biết rằng còn có một thực tại vĩ đại hơn, nằm bên ngoài những gì giác quan và tâm trí chúng ta có thể thấu hiểu.

Thiên Lâm

Advertisement

8 thoughts on “How to grasp the reality? Làm sao hiểu được thực tại?

  1. 1. Bài viết rất tốt.

    2. Các tư tưởng triết học trong bài viết hoàn toàn trùng khớp với Triết học Ấn Độ giáo, Triết học Phật giáo và Thần học Cơ đốc giáo. Các khái niệm cốt lõi có liên quan sẽ là: Maya (ảo ảnh), cộng nghiệp, biệt nghiệp v.v…

    3. Không ai có thể phủ nhận những cống hiến to lớn của khoa học với sự phát triển của xã hội loài người và nền văn minh rực rỡ của loài người. Nhưng tôn thờ khoa học như là con đường duy nhất và toàn năng để nhận thức thế giới thì lại là một thái độ cực kỳ nguy hiểm và cực kỳ STUPID, đúng như Einstein nói: “Chỉ có 2 thứ vô hạn: vũ trụ và cái STUPIDITY của con người, và tôi không chắc về cái thứ nhất”.

    Đã thích bởi 1 người

  2. Một đề nghị:
    Kính gửi anh Hưng.
    Trong comment trên tôi có dùng một từ rất mạnh, đó là “cực kỳ STUPID” ở cuối đoạn 3. Nghĩ lại tôi thấy như thế có nặng lời quá không ? vì nó giống như một lời nóng nẩy ném vào đám trí thức nửa mùa có mặt ở khắp nơi. Vậy tôi đề nghị anh cân nhắc hoặc để nguyên, hoặc xóa nó đi, hoặc giảm nhẹ nó đi. Tôi ủy quyền cho anh làm việc này sao cho phù hợp với khẩu vị của anh.

    PCT

    Thích

    • Thưa anh Thành,
      Quả thật người Việt mình ưa sự nhẹ nhàng tế nhị. Nhưng nhẹ nhàng tế nhị thế nào để làm cho những người mê tín học thuyết tiến hóa tỉnh ngộ? Làm thế nào để những người sính chủ nghĩa hình thức trong toán học hiểu ra rằng họ sai lầm? Làm thế nào để mấy ông thợ toán ra đề thi không đánh đố học trò? Làm thế nào để những đại trí thức như David Hilbert giác ngộ Định lý Godel? Có lẽ vì thế nên Einstein mới không chịu nổi cái đám trí thức nửa mùa mà anh nói, rồi phải cất lên những câu nói nóng nẩy nhưng bất hủ như: “I don’t believe in mathematics”, “Only two things are infinite: the universe and human stupidity, and I am not sure about the former”…
      Có lẽ cần phải viết một bài về “trí thức nửa mùa” chăng?
      PVHg

      Thích

  3. Bài viết rất có ý nghĩa. Quả đúng như Einstein đã nói khoa học mà không có tôn giáo là nông cạn, còn Pasteur thì thốt lên rằng khoa học nông cạn làm con người xa dời Chúa. Trong đời, thứ quan trọng nhất ta cần tìm chính là Thượng Đế, ta tìm lại bản thân ta chính là ta tìm về với Ngài. Hơn nữa, khoa học cũng nên chấm dứt một số điều không tưởng như Thuyết đa vũ trụ, không gian đa chiều, du hành thời gian… Bởi khi ta còn chưa biết mình là ai, chưa hiểu rõ Thượng Đế thì không thể phán xét lung tung được. Ví như làm Giáo Chủ thì không khó đâu nhưng làm tấm thảm cho người khác dẫm lên mới gọi là Siêu Nhân.

    Đã thích bởi 1 người

  4. Blog này của bác rất thú vị. Nó làm tôi thiện cảm nhiều hơn với các nhà khoa học. Nếu đánh mất linh cảm, con người sẽ trở nên xa rời thực tế.

    Thích

  5. Có một truyện ngắn rất hay và đáng suy ngẫm, xin chia sẻ với bác Hưng và mọi người:
    Ba Vị Tiến Sĩ ” Bó Tay” Trước Câu Hỏi Của Một Bà Cụ
    Sau Thế chiến I, một nước nọ muốn dùng phương pháp khoa học để khuyên răn người dân không tin vào Thần Phật. Họ mong muốn dân chúng thoát ly khỏi tín ngưỡng. Trong một buổi hội thảo, chính quyền mời ba vị Tiến sĩ lên thuyết giảng. Và một cụ bà đã khiến cả ba vị tiến sĩ lặng thinh.
    Vị thứ nhất là Tiến sĩ về Thiên văn, sau khi ông bước lên sân khấu lý giải vô số lý do để chứng minh cho thuyết vô thần, cuối cùng ông nói to: “Tôi đã dùng kính viễn vọng quan sát vũ trụ hơn 20 năm nhưng chưa bao giờ trông thấy Thần, vì thế chắc chắn không có thần thánh”. Sau câu nói ông nhận được tràng pháo tay của số đông công chúng.

    Vị thứ hai là Tiến sĩ Y học, sau khi nói rất nhiều đạo lý cho rằng con người tuyệt nhiên không có linh hồn, ông kết luận: “Tôi từng giải phẫu hàng trăm thi thể, quan sát tỉ mỉ các bộ phận, thế nhưng không phát hiện có nơi nào để linh hồn gửi gắm. Trong tim à? Trong đầu à? Trong máu à? Tôi đều giải phẫu nhiều lần rồi nhưng không thấy gì, vì thế chắc chắn không có linh hồn”. Nói xong lại nhận được tràng pháo tay vang dội.

    Vị thứ ba là một nữ Tiến sĩ, một nhà luận lý học. Cô từ từ bước lên sân khấu rồi phát biểu: “Người chết giống như cái đèn bị tắt. Chết là hết, tuyệt đối không có cái gọi là Thiên đàng hay Địa ngục để phán xét. Tôi từng đọc qua các sách cổ kim đông tây nhưng không thấy ghi chép gì về chuyện này”.

    Sau khi ba vị tiến sĩ thuyết giảng xong, người chủ trì hướng về phía công chúng nói: “Nếu trong tất cả mọi người có ai không thỏa mãn, hoặc muốn tranh luận, đều có quyền lên thảo luận công khai”.

    Sau một lúc lâu nhưng không có ai lên tiếng phản bác, buổi hội thảo chuẩn bị kết thúc trong sự đắc thắng. Bỗng một bà cụ bước lên sân khấu, nói với người chủ trì: “Tôi có thể hỏi thêm vài câu hỏi được không?”

    Vị chủ trì nói: “Rất hoan ngênh cụ!”

    Thế rồi bà cụ nhìn vị tiến sĩ đầu tiên, hỏi: “Anh dùng kính viễn vọng nhìn được hơn 20 năm, thế anh có nhìn thấy gió không? Nó có hình dạng thế nào?”.

    Vị tiến sĩ trả lời: “Kính viễn vọng sao có thể trông thấy gió được thưa cụ?”

    Bà cụ nói: “Trên thế giới có gió không? Anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy gió, lẽ nào anh có thể dùng kính viễn vọng nhìn thấy Thần? Anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy Thần thì có nghĩa là không có Thần sao?”. Vị Tiến sĩ chỉ biết im lặng không thể nói lại được.

    Thế rồi bà cụ lại nhìn sang vị Tiến sĩ thứ hai, hỏi: “Anh có yêu vợ anh không?”

    Vị Tiến sĩ kia thưa: “Dạ, có yêu thưa cụ”.

    Bà cụ tiếp lời: “Vậy anh đưa con dao giải phẫu cho tôi, tôi thử mổ bụng anh xem thử cái gọi là ‘yêu’ đó nằm ở bộ phận nào? Trong gan? Trong dạ dày? Hay trong ruột?”. Bên dưới mọi người cười vang dội.

    Tiếp tục, bà cụ lại nhìn sang nữ Tiến sĩ hỏi: “Cô đã đọc quyển sách này chưa? Nó gọi là «Kinh thánh». Chẳng phải rõ ràng quyển sách này có nói mọi người sau khi chết đều chịu phán quyết sao? Cô đừng tưởng chết là hết, phải biết rằng việc sau khi chết còn nhiều và dài hơn lúc còn sống rất nhiều! Khi cô còn trong bụng mẹ, nếu có người nói với cô rằng ‘không lâu nữa cô sẽ có mặt trên trái đất, có trời trăng sơn thủy, phải ăn cơm mặc quần áo’, cô có tin không? Thế nhưng hôm nay cô không chỉ tin mà còn thực sự đã đang sống trong thế giới này. Thế giới vĩnh hằng cũng là như thế!”

    Thích

  6. Trong bài viết của Thiên Lâm “Làm sao hiểu được thực tại” có nêu triết gia Locke nói rằng đặc tính chính của vật thì ở vật còn đặc tính phụ của vật thì ở người. Ngày nay khoa học giúp chúng ta biết chắc rằng tất cả mọi đặc tính của vật đều là do ở người, chứ vật không có đặc tính gì hết. Phật giáo từ lâu đã nói rằng “Nhất thiết pháp vô tự tính” (Tất cả các pháp đều không có tự tính_ Kinh Hoa Nghiêm).
    Khoa học biết rằng vật chất cấu tạo bởi các hạt cơ bản (Mô hình chuẩn của Vật lý hạt có 17 hạt cơ bản, nay mới khám phá thêm hạt hấp dẫn graviton). Tất cả các hạt đều là hạt ảo khi chúng bị cô lập. Niels Bohr nói “nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật có thật). Một vật, ví dụ trái táo, cấu tạo bằng các hạt như quark-up, quark-down (tạo thành hạt proton và neutron, làm hạt nhân nguyên tử), hạt electron làm vỏ nguyên tử, và các hạt tương tác làm lực kết nối, như photon, boson W, boson Z, gluon.
    Chúng ta hãy trở lại cuộc tranh luận về khoa học quan trọng nhất của thế kỷ 20, giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới là Niels Bohr và Albert Einstein. Bohr nói rằng hạt cơ bản (photon, electron) không có sẵn các đặc trưng như vị trí, khối lượng, điện tích, số đo spin, chỉ khi có người quan sát và đo đạc thì chúng mới xuất hiện. Tất cả các hạt đều không có bất cứ tính chất đặc trưng nào cả, tất cả mọi đặc trưng đều do con người gán ghép cho chúng khi quan sát và đo đạc. Einstein thì trái lại cho rằng các đặc trưng lúc nào cũng có sẵn, cái đó là khách quan, ông còn nói rằng chẳng lẽ Mặt trăng không tồn tại khi không có ai nhìn nó.
    Cuộc tranh luận kéo dài từ năm 1935 cho tới khi hai ông qua đời (Einstein mất năm 1955, Bohr mất năm 1962) bất phân thắng bại. Bởi vì người ta không biết làm cách nào để xác định ai đúng, ai sai. Đến năm 1964, một nhà khoa học Ái Nhĩ Lan đề ra phương án để giải quyết cuộc tranh luận, gọi là bất đẳng thức John Bell (tên ông), nhưng điều kiện để làm thí nghiệm thì chưa hoàn chỉnh. Năm 1967, một nhà khoa học trẻ người Mỹ, vốn ủng hộ lập trường của Einstein, quyết tâm chế tạo chiếc máy có khả năng tạo ra hiện tượng liên kết lượng tử (quantum entanglement) tức là làm cho một hạt photon xuất hiện đồng thời ở hai vị trí khác nhau. Đó là điều kiện cần thiết đế áp dụng bất đẳng thức Bell, quyết định một lần cho tất cả, xem ai đúng, ai sai. Năm 1982, một nhà khoa học Pháp tên là Alain Aspect tiến hành cuộc thí nghiệm vô cùng quan trọng đó tại Paris. Kết quả thí nghiệm khiến tất cả mọi người đều té ngữa, lập trường của Bohr tuy có vẻ vô lý, khó hiểu, nhưng lại được thực tế chứng minh là đúng, còn lập trường của Einstein tuy rất hợp lý theo kinh nghiệm thông thường, nhưng thực tế lượng tử là sai. Sau đây là video mô tả lại quá trình.
    Tranh Luận Giữa Bohr Và Einstein Về Cơ Học Lượng Tử

    Một kết luận không thể tránh khỏi là vật không có thật (non realism), vật chỉ là ảo do tâm tạo, đúng như kinh điển PG thường nói : nhất thiết duy tâm tạo.
    Năm 1982, tại Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh, Trương Bảo Thắng đã làm thực nghiệm, dùng ý niệm lấy một trong hai trái táo từ trong một thùng sắt mà nắp bị hàn kín, ra ngoài, trước mắt của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp và nhiều nhà khoa học. Sự kiện đó chứng tỏ thùng sắt và trái táo chỉ là những vật ảo.
    La Thiếu Bình

    Thích

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s