My story today is a personal memory of mine with the late Professor Cao Xuan Hao, a leading linguist in Vietnam. In the 1970s, we shared the joy of music. Thirty years later, we reunited for a discussion regarding the limitation of perception. I always consider him as a master and a big brother of mine …
Câu chuyện của tôi hôm nay là một kỉ niệm riêng tư của tôi với cố Giáo sư Cao Xuân Hạo, một nhà ngôn ngữ học hàng đầu của Việt Nam. Trong những năm 1970, chúng tôi cùng chia sẻ niềm vui âm nhạc. Ba mươi năm sau, chúng tôi tái ngộ trong một dịp thảo luận về giới hạn của nhận thức. Tôi luôn coi ông như một người thầy và một người anh lớn của tôi … …
KỈ NIỆM
Số là năm 2003, tôi viết một bài báo nhan đề “BẤT KHẢ”, đăng trên Văn Nghệ số 15 ra ngày 12/04/2003, trong đó có trích dẫn một câu nói của Khổng tử như một đề từ. Bài báo đến tay GS Cao Xuân Hạo. Ông liên viết một bài báo nhan đề “BẢY KHÚC BIẾN TẤU TRÊN MỘT CHỦ ĐỀ CỦA KHỔNG PHU TỬ”, đăng trên Văn Nghệ số 19 ra ngày 10/05/2003, trong đó GS bình phẩm bài báo của tôi, vừa chê, vừa khen.
Lúc ấy tôi đang ở Úc, nhận được thư của một bạn thân thông báo: “GS Cao Xuân Hạo có bài bình phẩm bài báo của anh đấy, ông vừa chê, vừa khen, nhưng khen nhiều hơn”. Tôi sung sướng quá, muốn bay ngay về Việt Nam để xem bài báo ấy. Hồi ấy tôi vẫn còn đi làm ở Úc nên không thể về ngay được, mãi tới cuối năm mới về. Về đến nơi tôi đọc ngay bài báo của GS Cao Xuân Hạo, cảm giác hân hoan, vì biết rõ GS chê cái gì, khen cái gì.
Nếu Tuân tử[1], một nhà triết học Cổ Trung Hoa, từng nói “Người chê ta mà chê phải là thầy ta …” thì GS Cao Xuân Hạo chính là thầy của tôi. Tôi lập tức bày tỏ lòng biết ơn GS trong một bài báo nhan đề “Từ Bất Khả đến Chiếc Ly của Chúa”, đăng trên Văn Nghệ số 11 ra ngày 13/03/2004, trong đó tôi viết:
“Tôi cũng đặc biệt biết ơn Giáo sư Cao Xuân Hạo, vì đã có những phê phán chính xác đối với một sai lầm quan trọng trong bài “Bất Khả” – trích dẫn sai một di huấn của Khổng tử, làm đảo ngược nghĩa lý của di huấn đó … Tôi xin tiếp thu ý kiến phê bình của GS Cao Xuân Hạo”.
Viết như thế chưa đủ. Tôi còn “rắp tâm” phải đến thăm Giáo sư tại nhà riêng, không chỉ để tặng GS bài báo mới, mà còn để làm sống lại một kỉ niệm giữa ông và tôi khoảng 30 năm trước.
Tôi đã thực hiện được kế hoạch ấy vào một ngày trung tuần Tháng 03/2004. Đi cùng tôi hôm ấy có một chú em ruột của tôi và một nữ phóng viên báo chí. Tôi nói ngay với GS Hạo khi ông mời chúng tôi vào phòng khách:
- Anh Hạo ơi, anh không nhận ra em phải không? Em đã từng ngồi với anh ngoài Hà Nội cách đây ba chục năm đấy.
- Ừ nhỉ, ngay từ lúc đón cậu ở đầu ngõ, mình đã thấy cậu quen quen, nhưng không nhớ đã gặp cậu ở đâu.
- Tại nhà anh Hàm ở phố 325 (nay là phố Thế Giao, quận Hai Bà Trưng Hà Nội).
- Ô, tôi nhớ ra rồi. Nhớ ra rồi. Cậu chơi đàn guitar và hay hát mấy bài hát tiếng Pháp! Nhớ ra rồi.
- Vâng, đúng rồi đấy anh à.
- Tớ còn nhớ cậu phát âm một từ tiếng Pháp chưa chuẩn, đó là chữ “main”, cậu phát âm bị bẹt ra giống tiếng Pháp ở Quebec, không Parisien …
- Trời ơi, anh còn nhớ đến thế cơ à! Đó là bài “Tous les garcons et les filles” của Francoise Hardy, trong đó có câu: “Tous les yeux dans les yeux, et la main dans la main …”. Tôi thốt lên lời sung sướng, thầm nghĩ: “Hóa ra anh ấy không những nhớ mà còn nhớ rất rõ, nhớ chính xác các chi tiết”.
Cả chú em tôi lẫn cô nhà báo đều trố mắt ra thán phục trí nhớ và cái tai thẩm âm của một bậc sư phụ về ngôn ngữ.
Thế là bao nhiêu chuyện cũ được nói ra. Anh Hạo tuổi Canh Ngọ 1930, bằng tuổi ông anh cả của tôi, nên tôi coi ông như một người anh. Anh Hạo là bạn anh Hàm ở phố 325, anh Hàm hay mời tôi tới chơi để đàn hát cho các anh ấy nghe. Thế hệ các anh ấy tất cả đều giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, và có nhiều kỉ niệm cũ với nền văn hóa Pháp. Vì thế gặp một thằng em chơi guitar đam mê và hát tiếng Pháp say sưa, các anh ấy thích lắm. Dường như tôi làm cho các anh ấy sống lại thời tuổi trẻ của mình. Hồi ấy rất hiếm có máy hát, nhạc sống là nguồn tiêu khiển mua vui chủ yếu. Lúc ấy nghề nghiệp chính của tôi là giảng dạy toán kinh tế (vận trù học) và cơ học lý thuyết, nhưng tâm hồn tôi dành hết cho âm nhạc. Tôi mê nhạc hơn khoa học. Vì thế một mặt tôi rất kính trọng thế hệ đàn anh của mình, anh Hàm, anh Hạo, anh Kiên, anh Hoàng … nhưng tôi không quan tâm đến công việc nghiên cứu của các anh ấy. Chuyện âm nhạc lấn át mọi mối quan tâm khác. Ý tôi muốn nói hồi ấy tôi được đối diện và ngồi cạnh một nhà ngôn ngữ học bậc nhất Việt Nam, nhưng tôi không hề biết điều đó.
Vài năm sau mới biết, khi tôi đã trưởng thành hơn, mở rộng tầm mắt hơn, hiểu đời hơn, đọc nhiều hơn, học nhiều hơn. Hai cuốn sách của GS Cao Xuân Hạo gây ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi là: “Chiến tranh và Hòa bình”, và “Tiếng Việt – Văn Việt – Người Việt”. Bài báo gây ấn tượng nhất là bài “Chứng vĩ cuồng: hiện tượng và căn nguyên”[2], đó là chưa kể bài báo “Bảy khúc biến tấu …” sau này, khi anh Hạo bình phẩm bài của tôi nhưng anh không hề biết tôi là ai.
Trong cuộc tái ngộ năm 2004, ngoài những kỉ niệm xưa được nhắc lại, có 2 câu chuyện tôi xin kể lại ở đây, như một dấu ấn không thể nào quên:
Chuyện thứ nhất. Tôi hỏi GS Cao Xuân Hạo một câu hỏi liên quan đến việc dịch thuật cuốn “Chiến tranh và Hòa bình”, vì theo tôi, đây là một cuốn sách khổng lồ, người dịch phải nắm rất vững tư tưởng của tác giả, và do đó phải nắm vững ngôn ngữ của tác giả, đó là tiếng Nga. Tôi hỏi:
- Anh Hạo ơi, anh có thể cho em biết anh dịch “Chiến tranh và Hòa bình” từ tiếng Nga, hay tiếng Pháp, hay tiếng Anh được không? Vì theo em biết, anh không đi học ở Nga bao giờ. Nhưng em biết thế hệ các anh đều giỏi tiếng Pháp và tiếng Anh. Nên có lúc em nghĩ có thể anh dịch từ tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, nhưng có tham khảo bản tiếng Nga.
GS Cao Xuân Hạo trả lời:
- Cậu hỏi cũng phải đấy. Nhưng cuốn “Chiến tranh và Hòa bình” nói thế nào thì sự thật đúng như thế ấy: tôi dịch cuốn này từ tiếng Nga. Tôi tự học tiếng Nga. Tất nhiên trong quá trình dịch đôi lúc tôi có tham khảo thêm các tiếng khác. Nhưng đó chỉ là tham khảo khi cần thiết, và chủ yếu tôi dịch từ tiếng Nga.
Thật tuyệt vời! Tôi đã giải quyết được dứt điểm mối băn khoăn của tôi trước đó, vì một câu hỏi: Làm sao một người không hề đi Nga, không hề sống ở Nga, không được học tiếng Nga đầy đủ, mà có thể dịch một cuốn sách tiếng Nga vĩ đại như thế?
Thực ra tôi hỏi để biết chắc chắn về một tài năng mà từ lâu tôi đã thầm kính nể, khâm phục, coi là một người thầy, một người đàn anh cả về tuổi đời lẫn chữ nghĩa. Ngoài GS Cao Xuân Hạo, tôi cũng rất kính nể những dịch giả khác như Nguyễn Thụy Ứng, tự học tiếng Nga mà có thể dịch bộ tiểu thuyết khổng lồ “Sông Đông êm đềm” của Mikhail Sholokhov. Hoặc như Phạm Mạnh Hùng, cũng tự học tiếng Nga mà dịch nhiều tác phẩm của Maxim Gorky hay đến mức đoạt Giải thưởng Gorky của Nga. Khi ông đi Nga để lĩnh phần thưởng, ông không nói được tiếng Nga, một học trò của tôi lúc ấy đang học ở Nga đã làm phiên dịch cho ông. Cô học trò kể với tôi:
- Bác ấy không nghe và nói được, chú ạ. Cháu phải làm phiên dịch cho bác ấy.
- Ồ, cháu ơi, cháu có biết bác ấy tự học tiếng Nga không? Liệu cháu học ở Nga xong, cháu có dịch thuật được như bác ấy không? Tôi nói với cô học trò.
Bản thân tôi cũng có sách dịch, tôi thường dịch sách triết học khoa học. Tôi thấy dịch thuật là một nghệ thuật vô cùng khó khăn, đòi hỏi những tài năng đặc biệt, phải giỏi cả về ngôn ngữ lẫn về chuyên môn mà mình dịch thuật.
Còn một nhà ngôn ngữ học tuyệt vời nữa mà tôi quen biết ở mức thân thiết, đó là Giáo sư Bùi Phụng, một nhà soạn Từ Điển, nguyên chủ nhiệm khoa tiếng Việt Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông là nhân vật chính trong câu chuyện thứ hai mà tôi trao đổi với Giáo sư Cao Xuân Hạo trong lần tái ngộ năm 2004.
Chuyện thứ hai. Tôi hỏi anh Hạo:
- Anh Hạo ơi, chắc anh phải biết rõ một người đồng nghiệp nổi tiếng của anh là Giáo sư Bùi Phụng chứ ạ.
- Ô tất nhiên rồi. GS Hạo trả lời, rồi hỏi: Có chuyện gì vậy?
- Dạ, Giáo sư Bùi Phụng là thầy dạy tiếng Anh của em. Em rất thân với thầy. Thầy Bùi Phụng rất thích uống bia. Một lần em mời thầy uống bia tại quán bia 33 Thái Phiên ngoài Hà Nội. Trong lúc chuyện trò, tự nhiên thầy nhắc đến anh. Thầy bảo: “Ở xứ sở này, tớ chẳng chịu chữ nghĩa của ai cả, trừ một người”. Em hỏi: “Thầy chịu ai ạ?”. “Cao Xuân Hạo”, thầy Phụng trả lời. Vậy hôm nay được gặp anh ở đây, em phải nói nhận xét đó của thầy Bùi Phụng cho anh biết. Anh nghĩ sao về nhận xét đó?
- Ồ, vậy tớ cũng nhờ cậu chuyển lời cho thầy Bùi Phụng của cậu nhé: “Ở xứ sở này, tớ chẳng chịu tiếng Anh của ai cả, trừ Bùi Phụng”.
Thật thú vị. Đúng là anh hùng hảo hán ngả mũ chào nhau. Đó là thời điểm 2004. Tôi đã không kịp hoàn thành “sứ mệnh” GS Hạo giao cho, vì sau đó tôi lại phải về Úc. Đến khi về lại Việt Nam thì thầy Bùi Phụng đã ra đi. Nhưng tôi nghĩ cả hai nhà ngôn ngữ học này, GS Cao Xuân Hạo và GS Bùi Phụng, hôm nay đều đang mỉm cười đọc những dòng kỉ niệm này, vì “tâm động quỷ thần tri”.
Bây giờ đã đến lúc phải quay lại 2 bài báo chính mà tôi đã giới thiệu ở ngay đầu bài viết này: bài “Bất khả” của tôi và bài “Bảy khúc biến tấu trên một chủ đề của Khổng Phu tử” của GS Cao Xuân Hạo. Xin nói thêm: Mặc dù bài “Bất Khả” có thiếu sót lớn như GS Cao Xuân Hạo đã phê bình, nhưng bài báo vẫn được Tòa soạn báo Văn Nghệ tặng Giải thưởng Báo Chí Quý II năm 2003, vì lý do “bài này đã nhận được nhiều dư luận hưởng ứng, bình giá tốt đẹp của bạn đọc” (trích thư của Văn Nghệ gửi cho tôi ngày 15/08/2003). Độc giả có thể thắc mắc: Tại sao một bài báo có thiếu sót về chữ nghĩa học thuật mà lại được tặng thưởng? Tôi nghĩ bài báo “Bảy khúc biến tấu …” của GS Cao Xuân Hạo sẽ là câu trả lời. Vậy xin độc giả bớt chút thì giờ bình tâm đọc lại cả hai bài báo đó. Tôi nghĩ đây là một cuộc thảo luận thú vị về chủ đề “Giới hạn của nhận thức”.
BẤT KHẢ
bài của Phạm Việt Hưng trên Văn Nghệ số 15 ngày 12/04/2003
Đọc bài “Giới hạn nhận thức” của Đỗ Kiên Cường trên Văn nghệ số Quý Mùi vừa qua, người ta không thể không nghĩ đến “Nhận thức về giới hạn”. Nối hai đoạn trong ngoặc kép này lại với nhau, bạn sẽ gặp tư tưởng của John Barrow, giáo sư toán học và thiên văn học tại Đại học Sussex, London, trong cuốn sách đang gây nên tranh cãi “Bất khả – Giới hạn của khoa học và Khoa học về giới hạn” (Impossibilty – The Limits of Science and The Science of Limits)
Tại sao trong thời đại khoa học và công nghệ tiến bộ như vũ bão hiện nay bỗng nhiên lại đi bàn chuyện bất khả? Thoạt nhìn điều này có vẻ như không hợp thời, nghịch lý. Nhưng bình tâm một chút ta sẽ thấy đây là một chủ đề khoa học hết sức nghiêm túc, thiết thực, liên quan đến một nội dung căn bản của nhận thức: đó là nhận thức về nhận thức.
1 – NHẬN THỨC VỀ NHẬN THỨC:
Để tránh nhầm lẫn xin nói ngay rằng khái niệm bất khả ở đây không có nghĩa là không thể nhận thức được sự thật như “bất khả tri luận” (agnoticism) đã từng nói. Bất khả ở đây ngụ ý nhận thức là một quá trình tiệm tiến đến giới hạn nhưng không bao giờ vượt qua giới hạn. Thái độ bất chấp giới hạn của nhận thức chính là biểu hiện không nhận thức được khái niệm nhận thức. Ngược lại, “Biết cái không biết, ấy là biết”, giáo huấn bất hủ của Khổng Tử mà Đỗ Kiên Cường đã trích dẫn rất đúng chỗ.
Có thể kể ra hàng ngàn ví dụ minh hoạ cho giáo huấn trên, nhưng có lẽ tiêu biểu nhất vẫn là câu chuyện về Chủ nghĩa toán học hình thức (Formalism) trong thế kỷ XX. Đó là một trào lưu toán học tin rằng tồn tại một hệ thống chân lý logic tuyệt đối chính xác, phi mâu thuẫn, khách quan, tách rời thế giới vật chất xung quanh, và nhiệm vụ của toán học là đi tìm hệ thống chân lý tuyệt đối đó. Hãy nghe các lãnh tụ của phái hình thức tuyên bố:
– Tôi tin rằng toán học là nguồn chủ yếu của niềm tin vào một sự thật chính xác và vĩnh cửu, cũng như vào một thế giới có thể nhận thức được bằng siêu-nhận-biết (Bertrand Russell, trong Portraits from Memory).
– Toán học là một khoa học mà trong đó người ta không bao giờ biết là người ta đang nói về cái gì, miễn là cái điều người ta nói là đúng (Russell và Whitehead, trong Principia Mathematica).
Nhưng “bất hủ” nhất là một danh ngôn của David Hilbert: Điểm, đường, mặt có thể là cái bàn, cái ghế, cốc bia, miễn là chúng thoả mãn các ràng buộc của hệ tiên đề.
Với tư tưởng đó toán học bị chia ra thành “toán học thuần tuý” và “toán học ứng dụng”, trong đó toán học thuần tuý mới là “toán học chân chính”, còn toán học ứng dụng bị coi là toán học loại hai, thậm chí không được coi là toán học.
Dưới ngọn cờ của Hilbert, các nhà toán học đầu thế kỷ XX lao vào một sự nghiệp vĩ đại chưa từng có được gọi là siêu – toán – học (metamathematics): xây dựng lại toàn bộ toán học theo phương pháp tiên đề, sử dụng hệ thống ngôn ngữ thuần ký hiệu logic, biến logic thành một khoa học chúa tể, đứng trên mọi khoa học.
Để thực hiện chương trình này, các nhà toán học hình thức say mê tìm kiếm ý nghĩa tổng quát “siêu nhận biết” của các đối tượng toán học. Gottlob Frege, một thủ lãnh đầy uý tín của trường phái này, đã tốn công viết hẳn một bộ sách đồ sộ chỉ nhằm giải thích “số 3 là gì?”. Vâng, 3 không phải là 3 con gà, 3 con vịt nữa. 3 là cái gì đó thay mặt cho tất cả các tập hợp chứa 3 phần tử. 3 với tư cách là thực thể toán học tổng quát, siêu hình, thay vì chỉ là một số lượng để đo, đếm, như cách hiểu “tầm thường” trong đời sống hàng ngày. Số 3 của Frege không còn là “number three” (số 3) nữa, mà là một “threeness” (cái 3)!
Bất chấp Định Lý Bất Toàn (Theorem of Incompleteness) của Kurt Gödel, công bố năm 1931, chỉ rõ chương trình Hilbert là bất khả, chủ nghĩa toán học hình thức được tiếp tục phát triển dưới ngọn cờ của Nikolas Bourbaki, một trường phái toán học Pháp ngự trị nền toán học thế giới trong những thập kỷ 1950 -1970. Và thảm họa đã xảy ra khi người ta đưa chủ nghĩa Bourbaki vào nhà trường. Pháp là nước tiên phong cải cách giáo dục. Sách giáo khoa được biên soạn lại khác hẳn sách giáo khoa truyền thống. Người ta say sưa nhồi nhét vào đầu trẻ em những khái niệm siêu-nhận-biết kiểu như “cái 3” của Frege, hoặc như hàm số là cái gì đó được ký hiệu bởi chữ “f” kèm theo một mũi tên “=>”, hoặc khái niệm tập hợp, khái niệm ánh xạ, v.v. Phương pháp dạy học này được mệnh danh là “Toán học Mới”, và thậm chí gần đây ở Mỹ được gọi là “Toán học Mới-Mới” (New-New Mathematics), với việc du nhập cả Lý thuyết Tập Mờ (Fuzzy Theory) vào chương trình phổ thông.
Trong làn sóng toán học hóa, trừu tượng hóa mọi tư duy trong nhà trường, người ta không chỉ phạm sai lầm ở chỗ bất chấp cái bất khả trong toán học, mà còn bất chấp luôn cả cái bất khả trong tâm sinh lý của trẻ em. Trẻ em từ lớp mẫu giáo đến lớp 12 biến thành đối tượng thí nghiệm của khoa học giáo dục. Nhưng tiếc thay, khoa học này đã bỏ qua một lý thuyết thuộc vào loại quan trọng nhất của nhận thức luận, đó là lý thuyết về giới hạn của khoa học và khoa học về giới hạn, mà tác phẩm của John Barrow có thể coi như một tổng luận đầu tiên về đề tài này, một hạ tầng cơ sở của tri thức giáo dục và sư phạm.
Tiếng Việt và tiếng Anh đều có một từ chung rất hay, đó là chữ “ngưỡng” – “threshold”. Một trong các nghĩa của chữ này là “giới hạn” của cái gì đó. Từ điển Anh-Việt của Viện Ngôn ngữ học cung cấp một thí dụ giảng nghĩa rất hay: “above/below the threshold of consciousness”, tức là “trên/dưới ngưỡng của ý thức”. Xem thế đủ biết khái niệm bất khả đã có từ lâu, và những nhà khoa học xã hội và nhân văn nắm rất vững khái niệm này. Nhưng chính các nhà khoa học tự nhiên nhiều khi lại lãng quên, hoặc đôi khi vì quá hăng say muốn chiến thắng cái bất khả nên đã đẩy nghiên cứu của mình theo hướng bất chấp giới hạn. John Barrow viết: “Cả nhà khoa học lẫn triết học đều quan tâm đến khái niệm bất khả. Nhưng trong khi nhà khoa học có xu hướng chứng minh cái bất khả là khả thì nhà triết học lại lưu ý rằng nhiều cái ta tưởng là khả thực ra lại là bất khả”.
Vậy đâu là cái bất khả, đâu là giới hạn của nhận thức? Biết rằng tồn tại giới hạn của nhận thức là một chuyện, nhưng xác định được rõ đâu là giới hạn của nhận thức lại là chuyện khác, khó hơn nhiều. Nhận ra giới hạn này thường phải là một siêu thiên tài. John Barrow viết: “Ông ta là giáo sư Học Viện Balliot. Điều duy nhất ông ta không biết ấy là sự biết”. Xem thế thì biết các giáo sư nhiều khi cũng lúng túng không biết giới hạn kiến thức là ở chỗ nào. Hilbert là một thiên tài, nhưng ông không nhận ra giới hạn của toán học. Cuối đời ông cay đắng chứng kiến sự sụp đổ tan tành của chương trình siêu-toán-học. Henri Poincaré, người được mệnh danh là Mozart của toán học, phải xứng đáng được coi là một thiên tài của các thiên tài khi ông quyết liệt chống đối chủ nghĩa hình thức ngay từ buổi đầu trứng nước, khi mà uy tín của Hilbert đang bao trùm thế giới toán học.
Năm 2000 tôi may mắn được giáo sư Phạm Quang Thiều đưa đến thăm Đại học Henri Poincaré ở thành phố Nancy, một thành phố cổ kính nhỏ nhắn cách Paris 300 km về phía đông, quê hương của nhà toán học vĩ đại. Nhà trường tặng tôi tờ tạp chí Science số đặc biệt về thân thế và sự nghiệp của Henri Poincaré. Qua số tạp chí này tôi cảm nhận được điều gì đó như sự hối hận của người Pháp suốt gần một thế kỷ qua đã không đánh giá đúng tầm vóc của Poincaré. Tờ tạp chí này như một nỗ lực nhằm điều chỉnh lại những đánh giá về một người con xuất chúng của nước Pháp và thế giới. Nếu nước Pháp thập kỷ 1960 tự hào về những đứa con như Bourbaki dẫn đầu thế giới toán học hiện đại, thì ngày nay họ nói rằng đứa con ấy chính là Henri Poincaré. Poincaré đầu thế kỷ XX có thể chỉ là một nhà toán học xuất chúng, nhưng cuối thế kỷ này được nhìn nhận như một nhà tư tưởng khoa học vĩ đại nhìn xa trông rộng.
Trở lại với sự sụp đổ của chủ nghĩa hình thức, có lẽ không có nhận định nào đơn giản hơn rằng chủ nghĩa này đã “không biết cái không thể biết”, tức là không hiểu ý nghĩa hai chữ bất khả. Reuben Hersh, giáo sư Đại học New Mexico ở Texas, Mỹ, trong cuốn “Thực ra Toán học là gì?” (What is Mathematics, Really?) nói thẳng thừng ra rằng: “Một trong các nguyên nhân ít người biết đến của tình trang sa sút về toán học trong nhà trường hiện nay chính là ở chỗ người ta không hiểu bản chất của chính toán học”. Ý Hersh muốn nói: Toán học không phải là một hệ thống chân lý tuyệt đối siêu-nhận-biết, không tồn tại một hệ thống như thế, sự hình thức hóa và đề cao tính trừu tượng quá đáng chính là nguyên nhân làm chết toán học; trừu tượng hóa là một biện pháp cần thiết nhưng không phải mục đích, trừu tượng hóa vô độ không phải là giỏi toán học, mà ngược lại, chính là sự kém hiểu biết toán học!
2 – BẤT KHẢ TRONG GIÁO DỤC
Toàn bộ câu chuyện về toán học nói trên chỉ là một thí dụ nhấn mạnh ý nghĩa của khái niệm bất khả mà thôi. Thực ra khái niệm này ngự trị trên mọi phương diện của nhận thức. Nhà vật lý toán học lỗi lạc Roger Penrose, một trong các đồng tác giả của Lý thuyết Hốc đen, đã đưa ra mô hình Tam giác Penrose và mô hình Bậc Thang Penrose để mô tả khái niệm khái niệm bất khả như sự bất lực của khoa học trong việc nhận thức cái toàn bộ: Nhận thức chỉ có thể đạt tới chân lý cục bộ, thay vì chân lý toàn phần, chân lý tuyệt đối. Điều này xem ra chẳng có gì mới, vì từ cổ xưa cả Đông lẫn Tây đã lưu truyền điển tích “Thầy bói xem voi” rồi. Hiểu nghĩa lý “Thầy bói xem voi” không khó, nhưng biết vận dụng trong đời sống hàng ngày thì chẳng dễ tí nào, đặc biệt trong lĩnh vực giảng dạy. Trong lĩnh vực này tồn tại một nghịch lý sư phạm: Thầy giáo luôn muốn nâng tâm hồn các em lên những thế giới lãng mạn, nơi các quy luật của vũ trụ hé lộ ra dưới những định luật đẹp như thơ, nhưng thực tế vũ trụ không phải là một chiếc đồng hồ siêu chính xác, và bộ não của các em cũng không cho phép nạp dữ liệu tùy tiện như cho gà công nghiệp ăn để vỗ béo. Vậy chúng ta phải giải quyết nghịch lý này bằng cách nào? Điều này không dễ. Sự thành công hay thất bại phụ thuộc vào các chuyên gia sư phạm, người viết sách giáo khoa và người trực tiếp giảng dạy. Nói chính xác hơn, sự nghiệp giáo dục phụ thuộc vào trình độ của những chuyên gia này. Nếu những chuyên gia này khiêm tốn học hỏi nghiên cứu, hiểu rõ khái niệm bất khả trong chuyên môn và trong sư phạm thì xã hội may mắn. Ngược lại, nếu những chuyên gia này tự phụ cho kiến thức của mình là giỏi, là đủ, là duy nhất đúng thì xã hội chịu khổ.

Chẳng hạn hãy quan sát chất lượng chuyên môn của nền giáo dục Mỹ, nền giáo dục được một số người coi là tốt nhất thế giới, là tấm gương soi để thiên hạ noi theo. Ý nghĩ này đúng, nhưng mà sai! Đúng vì cứ nói đến Mỹ mà chê thì những người này không muốn nghe hoặc không cần nghe. Sai vì chính người Mỹ không nghĩ như thế. Thật là buồn cười khi chúng ta cứ muốn bắt chước rập khuôn một người mà chính anh ta tự chê mình hết chỗ nói. Xét cho cùng đây là cái bệnh sùng ngoại, nhất là sùng Mỹ, sùng đô-la. Trong dịp về thăm Việt Nam vừa qua tôi đã tận mắt chứng kiến một em học sinh tranh cãi ỏm tỏi với ông bố rằng nhạc Mỹ hiện đại, pop, rock, rage có sức sống hơn âm nhạc Việt Nam, rằng Britney Spears mới xứng đáng được gọi là một ngôi sao, chứ mấy nữ ca sĩ Việt nam thì chưa. Vì thế tôi thấy cần phải cảnh giác để nói về thực chất chất lượng giáo dục phổ thông ở Mỹ. Tốt nhất là các nhà giáo dục nên tìm hiểu sự thật qua báo chí Mỹ và trên mạng. Chẳng hạn địa chỉ:
http://ourworld.compuserve.com/homepages/mathman/index.htm .
Ở đó bạn có thể thấy các cô giáo ở Mỹ bất mãn ra sao trước chỉ thị của Bộ giáo dục đưa Lý thuyết Tập Mờ vào chương trình phổ thông. Thế đấy, sau khi đổ vỡ bởi chương trình Toán Học Mới thập kỷ 1970, nền giáo dục Mỹ tìm cách điều chỉnh. Nhưng thay vì nhận ra rằng cuộc cải cách của Toán học Mới là sai lầm và phải trở về với phương pháp truyền thống, các nhà giáo dục Mỹ hiện đại lại cho rằng cần phải tiếp tục cải cách và cải cách. Hậu quả là một tình trạng tụt hậu về giáo dục toán học trong nhà trường đến mức thảm hại, học sinh xa lánh môn toán, tìm học những ngành không cần hoặc rất ít cần toán. Với những “bệnh nhân” ốm yếu như thế, Bộ Giáo dục Mỹ lại “điều trị” bằng một thứ thuốc mạnh hơn: Lý thuyết Tập Mờ (thuốc đắng dã tật mà!). Những người chống đối chương trình này gọi chương trình này một cách giễu cợt là “Toán học Mới-Mới”! Báo chí Mỹ mô tả tình trạng tranh cãi lộn xộn trong nền giáo dục Mỹ hiện nay là cuộc “chiến tranh toán học” (Maths War). Tìm hiểu cuộc “chiến tranh” này, bạn sẽ giật mình thấy một tình trạng quen quen: khá nhiều bố mẹ tự dạy cho con cái mình vì không còn tin tưởng nhà trường nữa, và cho con đến trường chỉ cốt đối phó sao cho con có học bạ và bằng cấp đầy đủ mà thôi.
3 – KẾT LUẬN
Thế đấy, bất khả là một khái niệm cần được nghiên cứu nghiêm túc trong mọi lĩnh vực của nhận thức. Mục đích của nghiên cứu này là chỉ ra giới hạn của từng lĩnh vực nhận thức để định hướng nghiên cứu hợp lý nhất, tránh những tổn thất và lãng phí lẽ ra không nên có. Mặc dù chương trình Hilbert không phải là không có ý nghĩa tích cực (không bàn trong bài này), nhưng cái giá mà toán học và giáo dục toán học phải trả vì tham vọng không tưởng của nó là quá đắt. Thiệt hại của nó đến hôm nay vẫn còn, vẫn đang tiếp tục, chỉ cần bạn chú ý quan sát sẽ thấy.
Hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác, lĩnh vực giáo dục cần nắm vững khái niệm bất khả: Bất khả trong bản thân nội dung của ngành khoa học chuyên môn, và bất khả trong tương quan nhận thức mỗi ngành giữa cái tổng thể.
Sydney ngày 24 tháng 3 năm 2003
BẢY KHÚC BIẾN TẤU TRÊN MỘT CHỦ ĐỀ
CỦA KHỔNG PHU TỬ
bài của Cao Xuân Hạo, trên Văn Nghệ số 19 ngày 10/05/2003
Thầy Khổng (Khổng Tử, huý là Khổng Khâu), người được cả thiên hạ tôn làm THẦY, dạy rằng: Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã (Luận ngữ).
Các cụ đồ xưa giảng: tri là “biết”, chi là “chưng”, vi là “làm”, bất là “không”, thị là “ấy”, dã là “vậy”; cho nên câu trên có nghĩa là: “Biết chưng làm biết chưng, không biết làm không biết, ấy là biết vậy”.
Nếu trong đám học trò có đứa tối dạ nghe câu giảng này chẳng hiểu mô tê gì, thầy đồ sẽ nói cho rõ thêm;
Phải chi trò sáng dạ hơn chút đỉnh, trò phải hiểu ra rằng ý đức Thánh nói: “Biết thì lấy làm biết, không biết thì lấy làm không biết, ấy chính là biết vậy”.
Tục ngữ của dân gian ta – tinh hoa của sự sáng dạ – cho ta một biến tấu khá chính xác và tài tình; “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”.
Sự khác nhau giữa chủ đề và biến tấu thứ nhất này, mà ta có thể tạm coi là cổ xưa nhất, là ở chỗ khúc biến tấu có bổ sung một điểm quan trọng: đó là thái độ của người không biết phải có: thái độ im lặng để lắng nghe người khác nói. Nghe để mà học, và học để bớt dần cái khối lượng khổng lồ, vô biên bất tận, của những điều mình không biết (Học dĩ dũ ngu – Học là để bớt ngu đi). Sở dĩ Khổng Khâu không thấy cần nói rõ phần này ra, có lẽ là vì muốn cho cái công thức mà ông dùng để định nghĩa thế nào là biết lộ ra thật rõ. Nếu viết bằng một thứ văn không hay lắm, nhưng cận đại hơn, cái công thức định nghĩa ấy sẽ có dạng như sau (tạm gọi là biến tấu thứ hai):
Thế nào là Tri thức? Nội dung của Tri thức là biết được chính xác hai điều sau đây:
Mình đã biết được những gì, và 2. Mình còn chưa biết những gì.
Và nếu so sánh điều 1 với điều 2 một cách nghiêm túc, ai cũng sẽ thấy rằng những điều mình biết được chỉ là hạt muối cỏn con, vô nghĩa lý, bỏ vào cái biển mênh mông vô tận của những điều mình chưa biết.
Trong câu Học dĩ dũ ngu người đọc không thể không chú ý đến chữ dũ. Dũ là “bớt”, “giảm”, “đỡ” chứ không phải là “hết”, “khỏi”, vì một khi cái chưa biết đã là mênh mông vô tận, thì làm sao có thể, dù chỉ trong tưởng tượng mà thôi, làm cho nó “hết” đi được? Không những thế, mà thậm chí cái phần chưa biết ấy, ta cũng không thể biết nó gồm có những gì, dù sức tưởng tượng của ta có phong phú đến đâu chăng nữa, chứ đừng nói gì đến cái ý đồ tìm cách thủ tiêu nó. Nếu có ai, trong một giây phút rồ dại nào đấy, thấy trong trí nảy ra một ý đồ này, thì người đó có thể biết chắc rằng mình đã hoá điên.
Thế nhưng số người ấy hình như lại khá đông đúc, nhất là trong giới trí thức, thế giới của những bậc thiên tài (hay tự thấy mình là thiên tài). Âu cũng chẳng có gì là lạ, vì người điên với bậc thiên tài nhiều khi suy nghĩ hết sức giống nhau.
Cho nên cái vế sau câu danh ngôn của Khổng Tử quan trọng hơn và khó thực hiện hơn vế trước rất nhiều.
Gần đây, trong mục Diễn đàn của các nhà khoa học, tuần báo Văn nghệ có đăng hai bài báo rất hay, một của Đồ Kiên Cường (ĐKC), nhan đề Giới hạn của nhận thức (VN số Tết Quý Mùi, tr.44) một của Phạm Việt Hưng (PVH), nhan đề là Bất Khả (VN số 15, 12-4-2003, tr.15). Quan niệm của hai tác giả này trong khi bàn về những vấn đề tri thức luận trong ngành toán học và trong khoa học nói chung, chúng tôi hoàn toàn tán thành, và có lẽ nếu Khổng Tử có đọc hai bài này, chắc người cũng đồng tình không kém.
Nhưng câu nói của Khổng Tử lại được hai tác giả trích dẫn dưới dạng sau đây:
- (bài của ĐKC): Biết cái không biết chính là biết vậy.
- (bài của PVH): Biết cái không biết, ấy là biết[3].
Chúng tôi mạn phép gọi chung hai câu trích dẫn này là biến tấu thứ ba trên chủ đề của Khổng phu tử, vì hai câu đó chỉ khác nhau ở một dấu phẩy và ở hai hư từ “ấy”, “vậy” nếu không kể chữ “chính” làm cho câu của ĐKC có phần quả quyết hơn câu của PVH một chút.
Ta thấy phần đầu của câu “chủ đề” bị hai tác giả gạt đi, không rõ vì lý do gì (có lẽ họ không tán thành phần này, hoặc cho rằng nó không hay bằng phần sau chăng). Nhưng ngay cái phần sau này cũng được hai tác giả sửa lại một cách không thương tiếc, hay nói cho đúng hơn, được họ thay hẳn bằng một câu có nghĩa hoàn toàn ngược lại: Bất tri vi bất tri vốn có nghĩa là “không biết thì nhận là không biết”, được họ chuyển thành biết cái không biết. Và phần này, nối với phần sau; ấy (chính) là biết vậy, sau khi đã khử cái phần đầu là tri chi vi tri chi đi, làm thành một nhận định độc đáo không tiền khoáng hậu mà người trần, dù có là bậc đại hiền như Khổng Tử, cũng không thể nào tưởng tượng được.
Để diễn đạt cái ý bất hủ này, tiếng Hán thời Khổng Tử phải viết Tri sở bất tri, thị tri dã chứ không phải là bất tri vi bất tri, thị tri dã. Như vậy, khúc biến tấu thứ ba này chính là một nghịch đề đối với cái chủ đề của Khổng Tử.
Nhưng “Biết cái không biết” (tri sở bất tri) nghĩa là gì? Đây là một nhận định (statement), một tiểu cú (clause) làm chủ ngữ cho mệnh đề sau (thị tri dã) chăng? Hay chỉ là một lời khuyên hay một mục tiêu để tìm đến? Trong câu nguyên văn (được phục nguyên) cũng như trong câu dịch ra tiếng Việt không thấy có vị từ tình thái (modal verb) nào cho phép hiểu theo hai cách sau. Và nếu vậy, phải chăng ý của tác giả là “phải biết cái mà mình không biết được mới gọi là biết”?
Nhưng trong tất cả những lời dạy của Khổng Tử xưa nay chưa từng có một ý nào tương tự như vậy, dù là một cách gián tiếp và xa xôi đi nữa. Ngược lại, người bao giờ cũng tránh rất xa cái “sở bất tri”, tức là lãnh vực siêu hình học, mà người nói một cách hoàn toàn hiển ngôn là nên “kính nhi viễn chi” (cf. Luận ngữ: Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị trí hỉ – “Vì dân chuyên làm việc nghĩa, tôn trọng quỷ thần nhưng tránh xa nó ra, thì có thể nói là có trí vậy”). Lĩnh vực siêu hình bị Khổng Tử loại hẳn ra khỏi cái HỌC của người. Và chính câu Tri chi vi tri chi …là một trong những tuyên ngôn dứt khoát nhất của Khổng Tử nói rõ thái độ này của người và của toàn thể môn phái đối với thế giới siêu hình. Ai đã từng tìm hiểu đạo Khổng ít nhiều đều lý giải câu này như một lời khuyên:
Không nên bàn tới những điều mà ta không biết và không thể biết.
Đây có thể coi là một khúc biến tấu thứ tư của cái “chủ đề” nói trên. Nó hoàn toàn trái với cách hiểu và dịch của hai tác giả ĐKC và PVH, tuy hai vị đều có một quan điểm nhận thức luận và giáo dục học mà theo cách hiểu nông cạn của chúng tôi là hoàn toàn nhất trí với Khổng Tử. Thế nhưng câu nguyên văn của Khổng Tử lại bị chính họ hiểu thành một cái gì như: (Tri sở tri, thị bất tri dã, nhi) tri sở bất tri, thị tri dã, có nghĩa là: biết cái gì mình biết, ấy là không biết, còn biết cái gì mình không biết, ấy mới thật là biết” (“biến tấu thứ năm”) một nhận định hoàn toàn trái ngược với quan điểm của chính họ. Cả bài báo của PVH chỉ là một lời thuyết minh xuất sắc, được ứng dụng cho giáo dục học một cách chí lý (?) cho quan điểm của J. Barrow trong cuốn Impossibility. The Limits of Science and the Science of Limits mà chúng tôi tạm dịch là “Tính bất khả. Giới hạn của Tri thức và Tri thức về Giới hạn”. Tôi xin thú thật là đọc cái đầu đề này, tôi không cưỡng được cái cảm giác đây chính là khúc biến tấu thứ sáu, và là một trong những khúc biến tấu hay nhất, của cái chủ đề mà Khổng Tử đã lập thức một cách tối giản và tối ưu như vậy.
Còn khúc biến tấu thứ năm trên kia, vì hoàn toàn trái ngược với ý của Khổng Tử, của J. Barrow, của PVH, ĐKC và cả của lương thức (common sense) nữa, cho nên tất nhiên phải kéo theo một loạt phản ứng tự phát dưới dạng những khúc biến tấu khác phản bác nó một cách có sức thuyết phục hơn nhiều, chẳng hạn như:
Nhận rằng mình biết cái gì mình biết, ấy là biết thật, còn tưởng rằng mình biết cái mà mình không biết và không thể biết, ấy là tự lừa dối mình và lừa dối người khác vậy.
Khúc biến tấu thứ bảy này hoàn toàn nhất trí với tinh thần hai bài báo của ĐKC và PVH – xin nhắc lại rằng đó là hai bài báo rất hay và rất bổ ích đối với độc giả, trong đó có bản thân tôi, một người không chuyên về toán học, đã học được rất nhiều khi đọc hai bài báo đó. Chỉ riêng đối với cách dịch câu danh ngôn của Khổng Tử, may ra mới có thể ứng dụng khúc biến tấu này mà tôi, một người làm phiên dịch chuyên nghiệp, chính vì ngưỡng mộ hai tác giả, thấy cần nêu lên để góp phần chỉnh lý một chi tiết rất nhỏ nhưng lại có thể phương hại đến phẩm chất của hai áng văn hay nói trên.
BÀI HỌC
Sai lầm của tôi trong bài BẤT KHẢ là đã trích dẫn SAI câu nói của Khổng tử, làm đảo ngược ý nghĩa của câu nói ấy. Sai lầm này thể hiện một sự non nớt về mặt học thuật – trích dẫn mà không tham khảo nguồn dẫn một cách cẩn thận kỹ lưỡng để đảm bảo tính chính xác học thuật. Đây là một bài học xướng máu đối với tôi. Nếu không có sự phê bình của GS Cao Xuân Hạo, rất có thể tôi sẽ mắc sai lầm tương tự trong những bài báo khác.
Nhưng thật may mắn, trong khi cẩu thả trong việc trích dẫn, tôi lại hiểu đúng tinh thần của Khổng tử trong câu nói bất hủ của ông. Tinh thần ấy, như GS Cao Xuân Hạo đã thuyết giảng, có thể hiểu rằng tri thức có giới hạn, và trong khi chúng ta nhận thức thế giới, chúng ta phải ý thức được điều đó, tức là phải biết rằng tri thức có những giới hạn không thể vượt qua.
Đó là khúc biến tấu thứ sáu, mà GS Cao Xuân Hạo coi là một khúc biến tấu hay nhất, trong những cách hiểu đúng câu nói bất hủ của Khổng tử.
Đến đây tôi không thể cưỡng được mà không thốt lên: Khúc biến tấu thứ sáu này hoàn toàn phù hợp với một kết luận của Kurt Gödel, cha đẻ của Định lý Bất toàn nổi tiếng, rằng:
“Ý nghĩa của cuộc sống là ở sự phân biệt ước muốn với hiện thực” (The meaning of the world is the separation between wish and fact).
Ước muốn thì vô hạn. Hiện thực – khả năng biết – có hạn. Đừng để cái ước muốn vô hạn dẫn chúng ta vào một cuộc phiêu lưu trong ảo tưởng vô vọng. Phải tỉnh táo để nhận ra giới hạn của nhận thức, để sống một cách khôn ngoan, phù hợp với hiện thực, làm những việc thực sự có ý nghĩa đối với con người.
Đó cũng chính là nội dung chủ yếu của bài “Bất Khả” – toàn bộ bài báo này là những thảo luận về sai lầm của các nhà toán học và giáo dục toán học trong thế kỷ 20, xuất phát từ chỗ họ không nhận thức được vấn đề giới hạn của nhận thức. Họ muốn làm những việc tày trời mà họ không biết đó chỉ là những ảo tưởng.
Tại sao những người tài giỏi như thế lại ảo tưởng như thế?
Vì họ tự phụ. Giải được một bài toán, con người dễ tự phụ. Giải được những bài toán khó, con người càng tự phụ nhiều hơn. Chế tạo ra những công cụ như phép lạ, con người tưởng mình là chúa. Rốt cuộc, tự phụ dẫn con người đi vào bóng tối của sự ngu xuẩn và ngạo mạn, sai lầm!
Khổng tử là bậc đại trí, vượt trước thời gian, vì từ hơn 2500 năm trước ngài đã gợi ý cho nhân loại biết rằng có những cái không biết hoặc KHÔNG THỂ biết. Đó chính là điều hơn 2500 năm sau, Định lý Bất toàn của Kurt Gödel đã chứng minh đến mức không thể tranh cãi được. Thế mới biết Khổng tử thâm thúy và sâu sắc như thế nào. Giáo sư Cao Xuân Hạo, mỗi khi nhắc tới Không tử, ông luôn sử dụng những từ ngữ hết mức tôn kính, như Đức Khổng, Ngài, Người …
Khi viết cuốn “Định lý Gödel, Nền tảng của Khoa học Nhận thức Hiện đại”, do NXB Tri Thức xuất bản năm 2019, tôi đã nhắc nhiều đến Blaise Pascal, như một nhà toán học và triết học đi tiên phong trong những thảo luận về giới hạn của nhận thức – có thể xem những thảo luận này như một điềm báo trước của Định lý Bất toàn hơn 300 năm sau.
Nhưng tôi đã không nhắc gì đến Khổng tử, với câu nói bất hủ của ông liên quan tới vấn đề giới hạn của nhận thức, mà Giáo sư Cao Xuân Hạo đã phân tích dưới dạng những khúc biến tấu rất thú vị, trong đó có những biến tấu sai để chúng ta tránh, và những biến tấu hay để chúng ta học hỏi, tiếp thu.
Bài viết này là một nén hương để tưởng nhớ tới Giáo sư Cao Xuân Hạo, một nhà ngôn ngữ học bậc thầy, một tài năng quý hiếm, và với tôi, một người anh mà tôi hằng kính trọng, yêu mến.
DJP, Sydney 11/12/2021
[1] https://www.tudiendanhngon.vn/danhngon/dn/itemid/12750
[2] http://vannghe.free.fr/caoxuanhao/chung-vi-cuong.html
[3] Bài của PVH có chú thích rõ là câu này trích dẫn từ bài của ĐKC.

Một Vài Vấn Đề Về Việc Trích Dẫn Hán Văn
(Giuse Lê Long, Saigon 12:00 A.M. thứ Hai ngày 13 tháng 10, năm 2025.)
人皆知以食愈飢,莫知以學愈愚” – 孟子
Nhân giai tri dĩ thực dũ cơ, mạc tri dĩ học dũ ngu – Mạnh Tử
Ai cũng biết ăn để no bụng, nhưng không phải ai cũng biết học để bớt ngu đần – Mạnh Tử
Trong câu Hán văn trên, 4 từ ngữ cuối là <… 以學愈愚 dĩ học dũ ngu> nhưng Giáo sư Cao Xuân Hạo lại trích dẫn là <… học dĩ dũ ngu>, lỗi sai sót này do đâu? Do người sắp chữ Typo khi in báo, và đây là trích dẫn trong bài viết BẢY KHÚC BIẾN TẤU TRÊN MỘT CHỦ ĐỀ CỦA KHỔNG PHU TỬ – Giáo sư Ngữ Văn Cao Xuân Hạo, trên Văn Nghệ số 19 ngày 10/05/2003, và bài này được chép lại tại TRANG NHÀ Phạm Việt Hưng HOME của Giáo sư Phạm Việt Hưng: https://viethungpham.com/2021/12/11/professor-gs-cao-xuan-hao-1930-2007/
“[…] Thế nào là Tri thức? Nội dung của Tri thức là biết được chính xác hai điều sau đây:
Mình đã biết được những gì, và 2. Mình còn chưa biết những gì.
Và nếu so sánh điều 1 với điều 2 một cách nghiêm túc, ai cũng sẽ thấy rằng những điều mình biết được chỉ là hạt muối cỏn con, vô nghĩa lý, bỏ vào cái biển mênh mông vô tận của những điều mình chưa biết.
Trong câu “Học dĩ dũ ngu” người đọc không thể không chú ý đến chữ dũ. Dũ là “bớt”, “giảm”, “đỡ” chứ không phải là “hết”, “khỏi”, vì một khi cái chưa biết đã là mênh mông vô tận, thì làm sao có thể, dù chỉ trong tưởng tượng mà thôi, làm cho nó “hết” đi được? Không những thế, mà thậm chí cái phần chưa biết ấy, ta cũng không thể biết nó gồm có những gì, dù sức tưởng tượng của ta có phong phú đến đâu chăng nữa, chứ đừng nói gì đến cái ý đồ tìm cách thủ tiêu nó. Nếu có ai, trong một giây phút rồ dại nào đấy, thấy trong trí nảy ra một ý đồ này, thì người đó có thể biết chắc rằng mình đã hoá điên.
Thế nhưng số người ấy hình như lại khá đông đúc, nhất là trong giới trí thức, thế giới của những bậc thiên tài (hay tự thấy mình là thiên tài). Âu cũng chẳng có gì là lạ, vì người điên với bậc thiên tài nhiều khi suy nghĩ hết sức giống nhau. […]”
(Trích bài BẢY KHÚC BIẾN TẤU TRÊN MỘT CHỦ ĐỀ CỦA KHỔNG PHU TỬ – Giáo sư Ngữ Văn Cao Xuân Hạo, trên Văn Nghệ số 19 ngày 10/05/2003.)
Giáo sư Cao Xuân Hạo viết: “….trong giới trí thức … người điên với bậc thiên tài nhiều khi suy nghĩ hết sức giống nhau.”
Nghĩa là “Thiên Tài và thằng khùng rất giống nhau, có điều Thiên Tài có phát minh có giá trị, còn thằng khùng toàn làm chuyện tào lao.”
Trong chữ Thiên có vần “iên” của chữ Điên, còn chữ Tài thì cụ Nguyễn Du đã chỉ ra cho mọi người để lưu ý trong Truyện Kiều.
天 Thiên và 癲 Điên đều là từ Hán và đọc theo âm Hán Việt
“[…]
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần, phải phong trần,
cho thanh cao, mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
chữ TÀI, chữ Mệnh, dồi dào cả hai.
Có TÀI mà cậy chi TÀI,
chữ TÀI liền với chữ TAI (họa) một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
thì đừng có trách trời gần, trời xa.
Thiện căn là ở lòng ta,
chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI. […]”
(Trích Truyện Kiều thơ Nôm, Nguyễn Du)
Sở dĩ Truyện Kiều là kiệt tác văn chương cổ điển Việt Nam vì Nguyễn Du đã nâng tiếng Việt lên thật SANG TRỌNG. Nói như học giả Phạm Quỳnh, tiếng Việt xa xưa là tiếng nói Tủi Nhục nơi góc bếp xó đình, tầng lớp sĩ phu (trí thức) toàn học Hán ngữ và Hán văn, sáng tác văn chương thi phú bằng chữ Hán (Hán tự), đến Lê Thánh Tông khởi sự làm thơ Nôm, kéo theo Hồ Xuân Hương (bà chúa thơ Nôm), Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, v.v. và nhiều Danh Nho Việt Nam, nhưng phải đến Nguyễn Du mới là cuộc cách mạng về tiếng Việt. Trong Truyện Kiều, ta mới thấy VẺ ĐẸP LUNG LINH của tiếng Việt.
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn.” – Học giả Phạm Quỳnh, nguyên chủ bút Nam Phong Tạp Chí, Hà Nội.
ThíchThích
Trân trọng cảm ơn bạn Giu-se Lê Long.
Ý kiến của bạn luôn luôn có giá trị học thuật. Trong nhiều ý kiến của bạn, tôi sẽ trích ra những ý kiến hay để công bố trên trang PVH’s Home để chia sẻ rộng rãi hơn đến độc giả,
Rất mong bạn tiếp tục gắn bó với PVH’s Home và Nhận Thức Mới để cùng nhau mang ánh sáng của sự thật đến với mọi người.
PVH
ThíchThích
Dạ Thầy!
Con xin cảm ơn Thầy rất nhiều ạ …!
ThíchThích
Thầy kính!
Con vừa viết BỔ SUNG bài Khổng Mạnh Lão Trang Danh Ngôn và con vừa mới gửi vào trong Email của Thầy dạng Word để Thầy tiện dụng tham khảo. Nay con xin phép chép vào phần Bình Luận dưới đây để tiếp theo Bình Luận ở trên Mấy Vấn Đề Về Việc Trích Dẫn Hán Văn.
KHỔNG MẠNH LÃO TRANG DANH NGÔN
Khổng Tử, Mạnh Tử và Lão Tử, Trang Tử là những Triết Gia và Tư Tưởng Gia Trung Hoa cổ đại thường được gọi tắt là Khổng Mạnh và Lão Trang. Tư Tưởng và lý thuyết Triết Học của họ ở Trung Hoa vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (khoảng thế kỷ 6 TCN đến thế kỷ 4 TCN) mà sử gọi là thời 百家爭鳴 Bách Gia Tranh Minh – Trăm Nhà Đua Tiếng nghĩa là các Tư Tưởng Gia và Triết Gia tranh luận sôi nổi với nhau thông qua việc bày tỏ Tư Tưởng và lý thuyết Triết Học với các tác phẩm của họ, sử cũng gọi thời kỳ này là 諸子百家 Chư Tử Bách Gia – Trăm Nhà Học Thuật. Thông qua các tác phẩm của họ, hoặc do các học trò của họ, hoặc người đời sau ghi chép lại, nhiều “câu nói thời danh” của họ tức Danh Ngôn được lưu truyền đến ngày nay có ý nghĩa nhất định trong đời sống tinh thần và tư tưởng xã hội con người bởi vì đó là các GIÁ TRỊ CỐT LÕI (CORE VALUES) trường tồn theo thời gian hàng chục thế kỷ, cho dù xã hội nhân loại có trải qua bao thời kỳ thăng trầm, những GIÁ TRỊ CỐT LÕI của các Danh Ngôn còn có GIÁ TRỊ GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC đối với con người trong đời người như Kinh Tân Ước (New Bible) Chúa Jesus Christus nói rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” – Kinh Tân Ước, Sách: Tin Mừng theo thánh Matthew (Mt 4,1-11) và Tin Mừng theo thánh Luke (Lc 4,1-13).
Người ta hay trích dẫn Mạnh Tử
人皆知以食愈飢,莫知以學愈愚” – 孟子
Nhân giai tri dĩ thực dũ cơ, mạc tri dĩ học dũ ngu – Mạnh Tử
Ai cũng biết ăn để no bụng, nhưng không phải ai cũng biết học để bớt ngu đần – Mạnh Tử
Nhưng cần phải nhắc lại điều Khổng Phu Tử nói
知之為知之, 不知為不知, 是知也 (論語 – 為政)
Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã (Luận Ngữ – Vi Chính)
Biết (thì nói) là biết, không biết (thì nói) là không biết, thì (chính) là biết vậy.
學而不思則罔,思而不學則殆
Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi
Học mà không suy nghĩ ắt mê lầm, suy nghĩ mà không học tất nguy hại
孔子曰:“小不忍則亂大謀!”能忍常人所不能忍,方能為常人所不能為。
Khổng tử viết: “Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu!” Năng nhẫn thường nhân sở bất năng nhẫn, phương năng vi thường nhân sở bất năng vi.
Khổng Tử nói: “Kẻ không thể kiên nhẫn nhịn việc nhỏ thì sẽ làm hỏng mưu lớn.” Chỉ có thể chịu đựng được điều người khác không thể chịu đựng, mới có thể làm được điều người khác không thể làm.
Và nhắc lại cả Lão Tử và Trang Tử
1- 老子曰 Lão Tử viết – Lão Tử nói: ([sách] 明心寶鑑 Minh Tâm Bảo Giám)
慾多傷神,財多纍身
Dục đa thương thần, tài đa lụy thân
Ham muốn nhiều thì tổn hại tinh thần, tài sản nhiều thì làm khổ thân
2- 其嗜欲深者,其天機淺。《莊子 • 大宗師》
Kỳ thị dục thâm giả, kỳ thiên cơ thiển. [Trang Tử, Đại Tông Sư]
Ai có ham muốn càng sâu đậm, thì bản chất tự nhiên của hắn nông nổi.
– Càng có đa sở dục (nhiều ham muốn), đa sở cầu (nhiều mong cầu) thì cuộc sống càng nhiều áp lực càng khổ sở vì không dừng ham muốn càng nhiều hơn, đó là kẻ khốn khổ và khốn đốn nhất trên trần thế.
– Người xưa càng sâu sắc (thâm trầm) hơn khi nói rằng: kẻ có nhiều ham muốn không ngừng và thiếu trí sáng thì BẢN CHẤT NÔNG CẠN (淺近 THIỂN CẬN = NÔNG CẠN)
Lý thuyết và Tư Tưởng Triết Học của Lão Tử, tựu trung tập trung vào các điểm CHÁNH YẾU như sau.
+ THỨ NHẤT – THUYẾT VÔ VI, nghĩa là KHÔNG LÀM, với ý nghĩa LÀM MÀ NHƯ KHÔNG LÀM MỚI LÀ CÁI ĐỨC CỦA THÁNH NHÂN, tức là LÀM VỚI TINH THẦN 要旨 Yếu Chỉ (Thiền Pháp):
無所欲 Vô Sở Dục (không nhiều ham muốn)
外無所求 Ngoại Vô Sở Cầu (bên ngoài thì không nhiều mong cầu)
內無所得 Nội Vô Sở Đắc (bên trong thì không muốn có được điều gì)
Người hạnh phúc nhất là người có ít nhất chứ không phải là người có nhiều nhất.
“Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo.” – Đức Jesus Christus
Chúa không ép chúng ta theo Ngài, Chúa không buộc chúng ta bỏ mình và vác thập giá.
Ngài chỉ mời chúng ta và cho chúng ta ý chí tự do.
Nếu chúng ta muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập giá, nếu không thì thôi.
Tương tự, Đức Phật nói: “Thế gian vô thường, Tâm VÔ NGÃ.” (“Thế gian biến đổi, Tâm VÔ NGÃ là không còn NGÃ: THAM, SÂN, SI)
Vô Ngã: No-inner Core (nghĩa là không còn Chấp Ngã: Bám Víu Cái TÔI – EGO: cái TÔI)
Mỗi người theo đuổi theo những giá trị khác nhau trong cuộc đời.
Người chạy theo tài sản, vật chất, tiền tài, danh vọng, quyền lực, gái đẹp, v.v. …
Người theo đuổi những giá trị cốt lõi, những giá trị tinh thần, đạo đức và trí tuệ.
Người thích theo con đường tối. Người theo con đường sáng. Sự lựa chọn làm nên sự khác biệt của mỗi người.
Tư Tưởng VÔ VI của Lão Tử được viết trong tác phẩm Đạo Đức Kinh được trích dẫn lại như sau.
028. Vô vi nhi vô bất vi, thủ thiên hạ thường dĩ vô sự. Cập kỳ hữu sự bất túc dĩ thủ thiên hạ. [Đạo Đức Kinh, chương 48]
無為而無不為。取天下常以無事。及其有事,不足以取天下。《道德經, 第四十八章》
【Dịch】Không [cố ý] làm [vì tư dục] nhưng không gì mà không làm; muốn trị thiên hạ phải dùng vô vi; dùng hữu vi không đủ để trị thiên hạ.
(Đạo Gia Châm Ngôn Lục, thiên 02 – TỒN TẠI 存在 – QUY LUẬT 規律, Lê Anh Minh dịch từ nguyên tác Hán ngữ của Hàn Tinh do Nxb. Nội Mông Cổ Nhân Dân Xuất Bản Xã, Bắc Kinh 1997; Nxb. Văn Hóa Thông Tin, số 43 Lò Đúc, Hà Nội Quý 3 – 2003.)
+ THỨ NHÌ – THUYẾT BẤT PHÂN TRANH, THUYẾT VÔ VI chính là khởi nguyên dẫn đến THUYẾT BẤT PHÂN TRANH và
+ THỨ BA – CHỦ NGHĨA TỰ NHIÊN hòa hợp huyền đồng với vũ trụ – vạn vật thành một thể thống nhất là “Đạo” và LÀM BẤT KỲ VIỆC GÌ cũng nên THUẬN THEO TỰ NHIÊN, không cần phải có những áp lực tinh thần không cần thiết, một phong cách sống khôn ngoan không nhiều ham muốn không đáng có, TIẾT KIỆM NĂNG LỰC SINH TỒN và đó là MINH TRIẾT của Lão Tử được ông quảng diễn lại trong tác phẩm Đạo Đức Kinh, thường được trích dẫn như sau.
386. Dĩ kỳ bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. [Đạo Đức Kinh, chương 66]
以其不爭,故天下莫能與之爭。《道德經 • 第六十六章》
【Dịch】Chính vì thánh nhân không tranh với ai, nên trong thiên hạ không có ai tranh với ngài.
(Đạo Gia Châm Ngôn Lục, thiên 17 – BIỆN CHỨNG 辯證 – THẮNG BẠI 勝敗, Lê Anh Minh dịch từ nguyên tác Hán ngữ của Hàn Tinh do Nxb. Nội Mông Cổ Nhân Dân Xuất Bản Xã, Bắc Kinh 1997; Nxb. Văn Hóa Thông Tin, số 43 Lò Đúc, Hà Nội Quý 3 – 2003.)
022. Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên” [Đạo Đức Kinh – chương 25]
人法地,地法天,天法道,道法自然。《道德經•第二十五章》
【Dịch】Người noi theo phép tắc của Đất, Đất noi theo phép tắc của Trời, Trời noi theo phép tắc của Đạo, còn Đạo thì noi theo phép tắc tự nhiên.
(Đạo Gia Châm Ngôn Lục, thiên 02 – TỒN TẠI 存在 – QUY LUẬT 規律, Lê Anh Minh dịch từ nguyên tác Hán ngữ của Hàn Tinh do Nxb. Nội Mông Cổ Nhân Dân Xuất Bản Xã, Bắc Kinh 1997; Nxb. Văn Hóa Thông Tin, số 43 Lò Đúc, Hà Nội Quý 3 – 2003.)
Có một Truyện Ký như sau giữa Khổng Tử và Lão Tử.
孔子見老子 Khổng Tử Kiến Lão Tử – Khổng Tử Gặp Lão Tử
孔子適周,將問禮於老子。
Khổng Tử thích Chu, tương vấn lễ ư Lão Tử.
Khổng Tử đến nước Chu, định hỏi Lão Tử về lễ.
老子曰:「子所言者,其人與骨皆已朽矣,獨其言在耳。
Lão Tử viết: “Tử sở ngôn giả, kỳ nhân dữ cốt giai dĩ hủ hỹ, độc kỳ ngôn tại nhĩ.”
Lão Tử nói: “Những điều ông nói, người xưa nói ra, thân xác họ nay đều mục nát, chỉ còn lời nói lưu lại mà thôi.”
夫君子得其時則駕,不得其時則蓬累而行。
Phu quân tử đắc kỳ thời tắc giá, bất đắc kỳ thời tắc bồng lụy nhi hành.
Bậc quân tử gặp thời thì ra giúp đời, không gặp thời thì nên ẩn mình mà đi.
吾聞之曰:‘良賈深藏若虛,君子盛德容貌若愚。’
Ngô văn chi viết: “Lương cổ thâm tàng nhược hư, quân tử thịnh đức dung mạo nhược ngu.”
Ta từng nghe nói: “Người buôn giỏi thường giấu hàng như chẳng có gì, bậc quân tử đức lớn thường trông như kẻ ngu.”
去子之驕氣與多欲,態色與淫志,是皆無益於子之身。
Khứ tử chi kiêu khí dữ đa dục, thái sắc dữ dâm chí, thị giai vô ích ư tử chi thân.
Hãy bỏ đi cái kiêu khí, cái ham muốn, cái vẻ tự mãn và cái chí muốn dạy đời — những điều ấy đều vô ích cho thân ông cả.
(Đây chính là đoạn người đời sau diễn thành: “Ông phải bỏ cái ý chí dạy bảo người khác đi thì đời ông mới bớt khổ.”)
吾所以告子者,此也。」
Ngô sở dĩ cáo tử giả, thử dã.
“Những lời ta khuyên ông chỉ có bấy nhiêu thôi.”
孔子出,謂弟子曰:
Khổng Tử xuất, vị đệ tử viết:
Khổng Tử ra về, nói với môn đệ rằng:
「鳥,吾知其能飛;魚,吾知其能游;獸,吾知其能走。
Điểu, ngô tri kỳ năng phi; ngư, ngô tri kỳ năng du; thú, ngô tri kỳ năng tẩu.
“Chim, ta biết nó bay; cá, ta biết nó bơi; thú, ta biết nó chạy.”
走者可用罔,游者可用綸,飛者可用矰。
Tẩu giả khả dụng võng, du giả khả dụng luân, phi giả khả dụng tăng.
“Loài chạy có thể dùng lưới mà bắt; loài bơi có thể dùng câu mà câu; loài bay có thể dùng tên mà bắn.”
至於龍,吾不能知其乘風雲而上天。
Chí ư long, ngô bất năng tri kỳ thừa phong vân nhi thượng thiên.
“Nhưng đến con rồng, ta chẳng biết nó cưỡi mây gió mà bay lên trời ra sao.”
今日見老子,其猶龍邪!」
Kim nhật kiến Lão Tử, kỳ do long da!
“Hôm nay ta gặp Lão Tử — thật như gặp rồng vậy!”
(Trích 史記 – 老子韓非列傳 Sử Ký – Lão Tử Hàn Phi Liệt Truyện)
Lê Long, viết xong 11:00 A.M. Sài Gòn, thứ Tư ngày 15 tháng 10 năm 2025.
ThíchThích
明哲 MINH TRIẾT (The PHILOSOPHY of WISDOM) – 論文 Luận Văn (The Essay)
Từ Truyện Ký 孔子見老子 Khổng Tử Kiến Lão Tử – Khổng Tử Gặp Lão Tử – các học giả Tây phương đánh giá Lão Tử là Triết Gia KHÔN NGOAN nhất bởi vì ông không để bản thân trở thành CÔNG CỤ CHÍNH TRỊ của bất kỳ MƯU ĐỒ CHÍNH TRỊ từ bất kỳ LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ trong xã hội.
Đức Phật được các Triết Gia Tây phương xem là Triết Gia vĩ đại nhất vì ngài nói: “Thắng một đạo quân chưa phải là chiến thắng, thắng được BẢN NGÃ (EGO: cái TÔI) của bản thân mới là chiến thắng vĩ đại nhất.” Nghĩa là Đức Phật nhấn mạnh đến sự TU DƯỠNG (SELF – CULTIVATION) về TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) để con người TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH. Nguyên văn câu này như sau trong Kinh Nikāya bằng ngôn ngữ Pali.
“Attānañ ce piyaṃ jaññā,
rakkheyya naṃ surakkhitaṃ.
Tiṇṇaṃ aññataraṃ yāmaṃ,
paṭijaggeyya paṇḍito.
Attā hi attano nātho,
ko hi nātho paro siyā?
Attanā hi sudantena,
nāthaṃ labhati dullabhaṃ.”
— Aṅguttara Nikāya 5.3 (Yodhājīva Sutta)
Bản dịch Việt ngữ của Hòa Thượng Thích Minh Châu:
“Dầu có chiến thắng ngàn quân ở chiến trường,
cũng không bằng tự chiến thắng chính mình.
Tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất.”
(Kinh Tăng Chi Bộ, chương Năm Pháp, phẩm Người Chiến Sĩ — Aṅguttara Nikāya 5.3)
Aṅguttara Nikāya là bộ Kinh Điển của phái bộ Phật Giáo Nguyên Thủy tức 上座部 Thượng Tọa Bộ (Sthaviravāda, còn gọi Theravada) tự cho rằng duy trì nguyên văn giáo ngữ của Đức Phật – Chữ Theravada có nghĩa là “lời dạy của bậc trưởng thượng”.
Giáo sư Tiến Sĩ Toán Học Phạm Việt Hưng đề xuất ý kiến về TRIẾT HỌC (của sự) KHÔN NGOAN bằng Anh ngữ là The PHILOSOPHY of WISDOM, phạm trù Triết Học này ở Đông phương gọi là 明哲 MINH TRIẾT – chữ 明 MINH nghĩa là SÁNG được ghép từ chữ 日 NHẬT (mặt trời) và chữ 月 NGUYỆT (mặt trăng), chữ 哲 TRIẾT được ghép lại từ chữ 折 CHIẾT (tách ra) và chữ 口 KHẨU (cái miệng) hàm nghĩa PHÂN TÁCH và GIẢI THÍCH.
Người Nhật Bản đã dịch danh từ Philosophy (Anh ngữ), Philosophie (Pháp ngữ), Philosophia (Hy Lạp ngữ) sang Hán Việt là 哲學 Triết Học, trong tiếng Hy Lạp, Philo: TÌNH YÊU, Sophia: PHỨC TẠP, TINH VI, THÔNG THÁI, với ý nghĩa là YÊU MẾN SỰ THÔNG THÁI / YÊU MẾN SỰ HIỂU BIẾT, nếu dịch Hán Việt sát nghĩa là 好知 HẢO TRI / HIẾU TRI: HAM HIỂU BIẾT, người dùng danh từ này đầu tiên là nhà Toán Học Hy Lạp cổ đại Pythagore với ý nghĩa KHIÊM TỐN rằng YÊU MẾN SỰ THÔNG THÁI / YÊU MẾN SỰ HIỂU BIẾT, chứ không dám nhận mình là NGƯỜI CÓ HIỂU BIẾT.
Người Nhật Bản dịch danh từ Philosophy (Anh ngữ), Philosophie (Pháp ngữ), Philosophia (Hy Lạp ngữ) sang Hán Việt là 哲學 Triết Học chính là học giả người Nhật Bản にしあまね Nishi Amane (1829–1897) vào thập niên 1870 tại Đại Học Tokyo và phổ biến danh từ này ở Đông Á (Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam) đến ngày nay.
Các học giả và Triết Gia Tây phương vào đầu thế kỷ 20 cho rằng Đông phương bắt đầu từ vùng đất dải Gaza và khu vực Địa Trung Hải đến vùng Lưỡng Hà, Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa không có Triết Học mà chỉ có ĐẠO HỌC (The LEARNING of DAO, The STUDY of TAO) gắn liền với sự TU DƯỠNG (SELF – CULTIVATION) về TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) để con người TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH trong các tôn giáo (religion) ở Đông phương cổ đại, các tôn giáo đều có nguồn gốc xuất xứ ở Đông phương, Thiên Chúa Giáo với ba nhánh lớn là Do Thái Giáo (Judaism), Hồi Giáo (Islam) và Ki-tô Giáo hay Cơ Đốc Giáo (Christanity) từ Đức Jesus Christus (Giê-su Ki-tô) cũng xuất phát từ Đông phương, do Công Giáo (Catholic) bắt đầu từ Thánh Phê Rô (tiếng Anh: Peter, tiếng Hy Lạp: Petros có nghĩa là “Đá” tượng trưng cho “nền tảng” kiến tạo nên Hội Thánh Công Giáo La Mã) có Tòa Thánh Vatican ở Roma (La Mã) nên nhiều người nhận thức sai lầm rằng Công Giáo có nguồn gốc từ Tây phương.
(Chú thích:
Lưỡng Hà (Mesopotamia) là vùng đất lịch sử nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates, ngày nay chủ yếu thuộc lãnh thổ Iraq. Từ “Lưỡng Hà” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “vùng đất giữa hai con sông”. Khu vực này là cái nôi của nhiều nền văn minh cổ đại và là nơi ra đời của chữ viết cũng như các tri thức khoa học cổ xưa của nhân loại cho đến nay như Thiên Văn Học, Lịch Pháp (phép làm lịch) để xác định thời tiết khí hậu phục vụ nông nghiệp và các nghi lễ tôn giáo, Ngôn Ngữ Học, Toán Pháp (Toán Học) và Số Học, v.v.
Nhìn lịch sử các khoa học, có một sự liên hệ giữa tôn giáo (religion) và khoa học (science), các tri thức (knowledge) cổ xưa đều có nguồn gốc từ tôn giáo, nếu không muốn nói rằng khoa học xuất phát từ tôn giáo, nhiều nhà khoa học ngày nay nghĩ rằng khoa học và tôn giáo mâu thuẫn nhau vì khoa học là Thực Chứng Luận (Positivism) và tôn giáo là Đức Tin (Faith), đó là quan điểm hoàn toàn sai lầm và không chính xác trong tiến trình phát triển Tư Tưởng và Nhận Thức Luận (Epistemology) của nhân loại, các Thiên Tài khoa học là những người có Đức Tin tuyệt đối vào Đấng Sáng Tạo (Creator) tức Chúa Tể Vũ Trụ (Lord of The Universe). Có một phát ngôn thường được cho là do Louis Pasteur.
– «Un peu de science éloigne de Dieu, mais beaucoup de science y ramène.»
– «Little science takes you away from God, but more of it takes you to Him.»
– «Một chút khoa học khiến ta xa Chúa, nhưng nhiều khoa học lại đưa ta trở về với Ngài.»
Quan điểm sai lầm về sự mâu thuẫn giữa tôn giáo và khoa học dẫn đến xu hướng Vô Thần Luận (Atheism) và Duy Vật Luận (Materialism) trong Triết Học và khoa học nói chung.)
Triết Học, Tôn Giáo, Khoa Học và Giáo Dục đều có MỤC ĐÍCH tối hậu (sau cùng) là mang lại Hạnh Phúc thật sự cho con người trong cuộc lữ hành nơi trần thế. Hạnh Phúc là Sức Khỏe, Bình An, và Tự Do trong Ý Chí hành động, mọi thứ khác chỉ là CỨU CÁNH (PHƯƠNG TIỆN), sự nhầm lẫn giữa MỤC ĐÍCH và CỨU CÁNH là nguyên nhân của mọi khổ đau bất hạnh trong đời người.
Cái chết của Triết Gia Hy Lạp cổ đại Socrates vào cuối đời trong nhà tù cách đây 25 thế kỷ đã đặt ra vấn đề THÂN PHẬN (CONDITION) của con người và đặc biệt là người trí thức trước thời cuộc biến loạn khi ông bị bức tử phải uống chén thuốc độc với tội danh LÀM HƯ HỎNG THẾ HỆ THANH NIÊN THÀNH BANG ATHENS (ATHENS LÀ THỦ ĐÔ CỦA HY LẠP ĐẾN NGÀY NAY) chỉ vì Socrates dạy rằng trên hành trình tri thức phải biết ĐẶT CÂU HỎI tức là nhấn mạnh đến TƯ DUY ĐỘC LẬP, một người có nền học vấn và giáo dục căn bản thì TUYỆT ĐỐI KHÔNG NÓI THEO VÀ KHÔNG NÓI LEO, có TƯ DUY ĐỘC LẬP (The Independent Thinking) thì mới có TƯ DUY PHẢN BIỆN (The Critical Thinking) từ đó mới có TƯ DUY SÁNG TẠO (The Creative Thinking), bằng không thì một nền giáo dục của xã hội chỉ đào tạo ra những CỖ MÁY SUY NGHĨ thành MỘT KHUÔN đào tạo theo kiểu MUÔN NGƯỜI NHƯ MỘT.
TƯ DUY ĐỘC LẬP (The Independent Thinking) là QUAN YẾU KHỞI NGUYÊN cho mọi hành trình tri thức, cho nên Đức Phật dặn dò thế hệ mai sau: “Ai tin ta mà không hiểu ta, ấy là phỉ báng ta.” – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Học Triết Học và Lịch Sử Triết Học, Lịch Sử Tư Tưởng Nhân Loại không phải là học LÝ LUẬN (REASONING, THEORY) mà là học TÚI KHÔN của nhân loại từ những Tư Tưởng Gia thế giới từ Tây (Âu châu) sang Đông (Á châu), tức là nói đến vấn đề Nhận Thức Luận (Epistemology) để đánh giá lại các GIÁ TRỊ CỐT LÕI (CORE VALUES) trong tiến trình nhận thức của con người.
QUAN SÁT ĐÚNG – NHẬN THỨC ĐÚNG – TƯ DUY (SUY NGHĨ) ĐÚNG – HÀNH ĐỘNG ĐÚNG
Đó là mục đích của việc học Triết Học, tức Triết Học Thực Hành, Triết Học không chỉ của sự suy tư mà còn là Triết Học Hành Động. Karl Marx đã viết:
“Các nhà Triết Học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách, song vấn đề mấu chốt là cải tạo lại thế giới.” – K. Marx, Luận cương về Feuerbach.
Người ta nói Triết Học của Karl Marx là Triết Học Phê Bình / Triết Học Phê Phán (The Critical Philosophy) và hướng đến Thực Tiễn / Thực Hành (Karl Marx dùng từ ngữ Hy Lạp là Praxis tức Pratiquer trong tiếng Pháp và trong tiếng Anh là Practice), Triết Học của Karl Marx là Triết Lý Hành Động.
Tư Tưởng nền tảng của Kinh Thánh trong Công Giáo cũng có hàm ý “con người cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo và cứu độ” để “cải tạo lại thế giới”.
“For we are co-workers in God’s service; you are God’s field, God’s building.” – 1 Corinthians 3:9
“Chúng ta là những người cộng tác với Thiên Chúa; anh em là thửa đất của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây dựng.” – 1 Cô-rinh-tô 3:9
“The one who sat on the throne said, ‘Behold, I make all things new.’” – Revelation 21:5
“Đấng ngự trên ngai phán: Này đây, Ta đổi mới mọi sự.” – Khải Huyền 21:5
Mục tiêu tối hậu của Công Trình Cứu Độ (Salvation) là “Sáng Tạo Mới” – “New Creation”.
Trong văn chương kịch nghệ Trung Hoa cổ đại, tương truyền có các phát ngôn của Tư Mã Ý lưu hạ (dưới đây), do vậy Tư Mã Ý được xem là một Mưu Lược Gia về Chiến Lược trong Tung Hoành Thuyết.
司馬懿言出曰:
Tư Mã Ý ngôn xuất viết:
Tư Mã Ý có nói rằng:
1.
雕章琢句算什幺,懂得審時度勢、相機行事,乃更高境界。而達到此境界的公子還裝作一無所知,善于韜晦藏拙,潛龍。
Điêu chương trác cú toán thập yêu, đổng đắc thẩm thì độ thế, tương cơ hành sự, nãi canh cao cảnh giới. Nhi đạt đáo thử cảnh giới đích công tử hoàn trang tác nhất vô sở tri, thiện ư thao hối tàng chuyết – tiềm long.
Gọt giũa câu chữ thì có là gì, biết xét thời thế, và tùy cơ hành động mới là cảnh giới cao hơn. Còn người đạt đến cảnh giới ấy lại giả vờ như chẳng biết gì, khéo che giấu tài năng làm như vụng về kém cỏi – đó là rồng ẩn (tiềm long).
2.
雕章琢句算什幺,懂得審時度勢、相機行事/見機行事,乃更高境界;真正聰明的人應該讓人看不出他的聰明。
Điêu chương trác cú toán thập yêu, đổng đắc thẩm thì độ thế, tương cơ hành sự /kiến cơ hành sự, nãi canh cao cảnh giới; chân chính thông minh đích nhân ứng cai nhượng nhân khán bất xuất tha đích thông minh.
Gọt giũa câu chữ thì có là gì, biết xét thời thế, và ứng biến tùy cơ, mới là cảnh giới cao hơn; người thật sự thông minh là người khiến người khác không nhận ra sự thông minh của mình.
3.
真正聰明的人,應該讓人看不出他的聰明。智者務其實,愚者爭虛名。雕章琢句算什幺,懂得審時度勢、相機行事,乃更高境界。
Chân chính thông minh đích nhân, ứng cai nhượng nhân khán bất xuất tha đích thông minh. Trí giả vụ kỳ thực, ngu giả tranh hư danh. Điêu chương trác cú toán thập yêu, đổng đắc thẩm thì độ thế, tương cơ hành sự, nãi canh cao cảnh giới.
Người thật sự thông minh, là người khiến kẻ khác không nhận ra sự thông minh của mình. Bậc trí giả lo cái thực, kẻ ngu si tranh cái hư danh. Gọt giũa lời văn chữ nghĩa thì có là gì, biết xét thời thế, và tùy cơ hành động, mới là cảnh giới cao hơn.
Đại ý các câu nói trên rằng: “Giỏi văn chương chữ nghĩa thi ca, hoặc đàn ca xướng hát, võ nghệ tranh hùng, v.v. tất cả chỉ là “tài mọn” (“tài nhỏ lặt vặt”), cái thực học của bậc trí giả là quan sát thời cuộc và tìm cách thay đổi thời thế đại cục.”
Đông Tây Tư Tưởng gặp nhau !!!
All the Road come to Rome. – Tất cả mọi con đường đều đi đến thành La Mã.
Nhưng có một sự KHÁC BIỆT trong HÀNH ĐỘNG của bậc Thánh Giả / Thánh Trí / Hiền Giả MINH TRIẾT có sự TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) về TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) và những Học Giả / Trí Thức có hoài bão 經邦濟世 KINH BANG TẾ THẾ (DỰNG NƯỚC GIÚP ĐỜI), ở Trung Hoa cổ đại người ta gọi đó là 出處 Xuất Xử, nghĩa là ra làm quan gia nhập vào quan trường hoặc lui về ẩn cư (ở ẩn).
Người ta nói, trong tâm hồn mỗi người Trung Hoa là một ông Khổng và một ông Lão tức là nói đến Khổng Tử và Lão Tử, Khổng Tử đại diện cho người có học thức có hoài bão và ý chí trong đời sống xã hội được gọi là NHẬP THẾ (VÀO ĐỜI) khi còn trẻ sung sức đầy nhiệt huyết và tài năng, Lão Tử đại diện cho bậc Hiền Giả không màng DANH LỢI trong đời sống thế tục được gọi là XUẤT THẾ (LÁNH ĐỜI) sau khi đã trải qua thăng trầm Hỉ (vui), Nộ (giận), Ái (yêu), Ố (ghét) trong cuộc đời mà NHẬN CHÂN đâu là CHÂN TRỊ (GIÁ TRỊ THẬT) của cuộc đời !!!
DANH – LỢI – SẮC – TÌNH
Đó là toàn bộ hành trình hoạt động trong đời người bình thường phải trải qua.
DANH là DANH VỌNG, là sự TUNG HÔ TÁN DƯƠNG.
LỢI là LỢI LỘC và QUYỀN LỰC phát sinh ra QUYỀN LỢI tiền tài vậc chất tài sản.
SẮC là NỮ SẮC là SẮC ĐẸP của NỮ NHÂN hấp dẫn (quyến rũ).
TÌNH là ÁI TÌNH giữa nam nữ và TÌNH THÂN ruột thịt máu mủ giữa cha mẹ và con cái, anh em ruột thịt.
Một Nguyễn Công Trứ của Việt Nam cảm khái như một ông Khổng khi còn trẻ.
“[…] Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông […]”
Chú thích:
Đi Thi Tự Vịnh – sáng tác: Nguyễn Công Trứ
Đi không, há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng
(Trích bài thơ Đi Thi Tự Vịnh, Nguyễn Công Trứ)
Đến khi về già, Nguyễn Công Trứ sau khi nếm trải qua đủ mùi vị “lên voi xuống chó” và vui buồn cay đắng của cuộc đời lại cảm khái theo cách khác như một ông Lão.
“[…] Kiếp sau xin chớ làm người,
làm cây thông đứng giữa trời mà reo. […]”
Chú thích:
Vịnh Cây Thông – sáng tác: Nguyễn Công Trứ
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thời trèo với thông.
英雄難過美人關 Anh hùng nan quá mỹ nhân quan – Người Anh hùng khó qua cửa ải phụ nữ xinh đẹp
Một Hạng Vũ “anh hùng cái thế” phải chết vì Ngu Cơ và một Lã Bố “thiên hạ vô địch vũ dũng” chết vì Điêu Thuyền.
Góc khuất trong cuộc đời của những con người kiệt xuất và góc khuất trong đời sống tinh thần của người Trí Thức khiến cho những bậc Trí Giả phải suy nghĩ về vấn đề THÂN PHẬN (CONDITION) của con người. Tài năng và học thức, học vấn uyên thâm, kiến thức phong phú, giàu sang phú quý, tất cả như bọt bèo phù du (trôi nổi) … !!!
Con đường CÔNG DANH SỰ NGHIỆP và TRI THỨC NGOẠI GIỚI (sự hiểu biết về thế giới tự nhiên bên ngoài của Khoa Học và Kỹ Nghệ), tài sản cao như núi cũng không thể nào lấp đầy KHOẢNG TRỐNG trong tâm hồn, sự THỂ HIỆN ra ngoài của KHÍ PHÁCH và TINH ANH cũng chỉ phản ánh nỗi BẤT AN trong tâm hồn, chỉ có sự TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) của đời sống TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) và ĐẠO ĐỨC mới đem lại sự BÌNH AN và TRÍ TUỆ thật sự cho con người – TU là SỬA TRỊ bản thân và sự khiếm khuyết của tâm hồn, DƯỠNG là phát triển những nhân tố tích cực của TÂM TÁNH con người.
“[…] Sư rằng: ‘Phúc họa đạo trời,
‘Cội nguồn’ cũng ở lòng người mà ra.
‘Có trời mà cũng tại ta,
‘Tu là cỗi phúc tình là dây oan. […]”
(Trích cuộc gặp gỡ giữa sư Giác Duyên và Thúy Kiều, Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Một Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xa rời đời sống thế tục và quan trường đầy dẫy 是非 Thị Phi (khen chê), chọn nơi 鄉村 hương thôn (làng quê) với cuộc sống 簡易 giản dị (không rắc rối) và 清貧 thanh bần (nghèo mà trong sạch yên bình, thanh bình).
“[…] Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ …
Người khôn người đến chốn lao xao […]”
Chú thích:
Cảnh Nhàn – sáng tác: Nguyễn Bỉnh Khiêm
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến bóng cây ta hãy uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
(Trích Trình Quốc Công Bạch Vân Am Thi Tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm.)
自古至今 Tự cổ chí Kim (từ xưa đến nay), trải dài từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu, các bậc Hiền Giả và Danh Sĩ luôn “quay về chính mình” và tránh xa vòng DANH LỢI SẮC TÌNH lao xao.
Sức mạnh là Tri Thức (Knowledge) là “chân lý” trong việc “định hình” lại thế giới ngày nay, người ta gọi đó là “Quyền Lực Mềm” (“Soft Power”) trong việc quản lý và thống trị, thậm chí là thao túng thế giới và con người.
Chú thích:
Quyền Lực Mềm (Soft Power) là một khái niệm do giáo sư người Mỹ Joseph Samuel Nye, Jr. (1937-nay) ở đại học Harvard đưa ra lần đầu tiên trong một quyển sách phát hành năm 1990, Bound to Lead: The Changing Nature of American Power (Sứ Mệnh Lãnh Đạo: Bản Chất Đang Thay Đổi Của Quyền Lực Hoa Kỳ). Ông giải thích rõ hơn về khái niệm này trong quyển sách phát hành năm 2004, Soft Power: The Means to Success in World Politics.(Quyền Lực Mềm: Phương Tiện Đi Đến Thành Công Trong Chính Trị Thế Giới).
Tiếc thay! Đó chỉ là ảo ảnh và ngộ nhận! Chừng nào mà “thế giới bên trong” (nội tại) của tâm hồn chưa yên ắng thì chừng đó con người chỉ thấy sự bất an và phiền não khổ sở … !!! “[…]‘Cội nguồn’ cũng ở lòng người mà ra. […]”(Trích cuộc gặp gỡ giữa sư Giác Duyên và Thúy Kiều, Truyện Kiều, Nguyễn Du). Tri Thức Khoa Học chưa đủ, phải có sự TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) của đời sống TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) và ĐẠO ĐỨC mới đem lại sự BÌNH AN và TRÍ TUỆ thật sự cho con người.
“Le science sans conscience n’est que ruine de l’âme.” (“Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ là sự tàn lụi của tâm hồn.”) – Văn sĩ Pháp François Rabelais (1483–1553).
Tri Thức Khoa Học chỉ là sự hiểu biết (understanding) bên ngoài (ngoại giới), thế giới tinh thần bên trong (nội tại) của con người mới thật sự là hiểu biết trọn vẹn hơn.
“Men go abroad to wonder at the heights of mountains, at the huge waves of the sea, at the long courses of the rivers, at the vast compass of the ocean, at the circular motions of the stars, and they pass by themselves without wondering.” (St. Augustine)
“Người ta thường bàng hoàng ngây ngất trước cảnh quan những rặng núi cao hùng vĩ, những ngọn sóng bao la của biển cả, những dòng sông chảy dài miên man không dứt, những “tấm thảm” đại dương mênh mông, những chu kỳ chuyển động không ngừng của các tinh tú trong vũ trụ, thế mà con người lại bỏ qua chính mình mà không hề tự vấn.” (Thánh Augustine)
Chú ý đến thế giới tinh thần bên trong (nội tại) của con người chính là “quay về chính mình”.
1- “Tout ce que je sais, c’est que je ne sais rien.” – “The only thing I know is that I know nothing at all.” – “Điều duy nhất mà tôi biết là tôi không biết gì cả.” – Socrates
2- “L’homme! Connais-toi toi-même!” – “Man! Know Thyself!” – “Hỡi con người! Hãy tự biết mình!” – Socrates
Là sự rèn luyện và TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) thế giới tinh thần bên trong (nội tại) của con người. Trung Hoa có câu ngạn ngữ sau.
先責己,後責人 – Tiên trách kỷ, hậu trách nhân – Trước tiên hãy tự trách mình, sau mới trách người khác.
子曰:君子求諸己,小人求諸人。(論語,衛靈公篇)
Tử viết: “Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân.” (Luận Ngữ, Vệ Linh Công thiên)
Khổng Tử nói: “Người quân tử tìm lỗi ở chính mình; kẻ tiểu nhân tìm lỗi ở người khác.” (sách Luận Ngữ, thiên Vệ Linh Công)
孟子曰:富貴不能淫,貧賤不能移,威武不能屈,此之謂大丈夫。
Mạnh Tử viết: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu.”
Mạnh Tử nói rằng: “Giàu sang mà không hoang đàng xa xỉ, nghèo khổ mà không đổi chí khí, quyề lực không làm khuất phục, đó gọi là bậc đại trượng phu.”
(Trích sách 孟子 Mạnh Tử, thiên 滕文公下 Tằng Văn Công Hạ.)
Tư Tưởng của Đạo Gia (Daoism, Taoism) trường phái Triết Học của Lão Trang, Đạo Lý ở đời là
柔勝剛,弱勝強。天下莫不知,莫能行。
NHU THẮNG CƯƠNG, NHƯỢC THẮNG CƯỜNG. Thiên hạ mạc bất tri, mạc năng hành.
MỀM THẮNG CỨNG, YẾU THẮNG MẠNH. Ai trong thiên hạ cũng biết điều ấy, nhưng ít ai làm được.
(Trích 道德經 Đạo Đức Kinh, Lão Tử.)
Ý nghĩa triết học:
以大義而勝兇殘,以智仁而易強暴。(平吳大誥,阮廌)
“Dĩ Đại Nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ Trí Nhân nhi dịch cường bạo.” (Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi.)
“Lấy Đại Nghĩa thắng hung tàn, lấy Trí Nhân thay cường bạo.” (Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi.)
Chúa Giê-su Ki-tô (Jesus Christus) được những người Pharisees dẫn đến một người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình. Họ muốn thử Ngài, xem có đồng ý ném đá theo luật Moyses không. Chúa chỉ nói câu sau, khiến mọi người lần lượt bỏ đi, vì không ai dám tự cho mình vô tội.
“Qui sine peccato est vestrum, primus in illam lapidem mittat.” – Jesus Christus, Ioannes 8:7 (Novum Testamentum)
“He that is without sin among you, let him first cast a stone at her.” – Jesus Christ, John 8:7 (New Testament)
“Ai trong các ngươi không có tội, hãy ném đá chị này trước đi.” – Chúa Giê-su Ki-tô, Gioan 8:7 (Tân Ước)
Đó là tinh thần trung tâm của Kitô giáo (Christianity): Tha thứ, khiêm nhường, và tránh phán xét người khác.
“Quia omnis, qui se exaltat, humiliabitur; et, qui se humiliat, exaltabitur.” – Matthew 23:12, Luke 14:11, Luke 18:14
“For whoever exalts himself will be humbled, and whoever humbles himself will be exalted.” – Matthew 23:12, Luke 14:11, Luke 18:14
“Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.” – Matthêu 23:12, Luca 14:11, Luca 18:14
Vấn đề ẩn cư (ở ẩn) của các Danh Sĩ không chỉ là XUẤT THẾ (LÁNH ĐỜI) để AN PHẬN THỦ THƯỜNG và TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) để lại những GIÁ TRỊ GIÁO DỤC TINH THẦN cho nhân loại như các Tư Tưởng Gia và Triết Gia mà là chọn một hướng đi trong cuộc đời bằng cách cống hiến trọn đời tận tụy cho các lãnh vực khoa học với các phát minh về Tư Tưởng Khoa Học như các Khoa Học Gia, các Công Trình Tuyệt Tác Khoa Học, các công trình về Ngôn Ngữ Học và Văn Chương Thi Ca, Lịch Sử, Địa Lý, Toán Học, Vật Lý Học, Hóa Học, v.v. đặc biệt là về Y Thuật ở Trung Hoa cổ đại như 傷寒雜病論 Thương Hàn Tạp Bệnh Luận 張仲景 của Trương Trọng Cảnh (159 – 216) thời triều Đông Hán, 名醫別錄 Danh Y Biệt Lục của 陶弘景 Đào Hoằng Cảnh (456 – 536) thời Nam Bắc triều, 備急千金要方 Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương của 孫思邈 Tôn Tư Mạc (541 – 682) thời triều Đường, 本草綱目 Bản Thảo Cương Mục của 李時珍 Lý Thời Trân (1518 – 1593) thời triều Minh, v.v. ở Việt Nam có tác phẩm 海上醫宗心領 Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh của lương y Lê Hữu Trác (1720 – 1791), ở Hy Lạp cổ đại có Hippocratic Corpus (Hyppocrates Toàn Tập) của ông tổ Tây Y Hyppocrates (460 –370 TCN), tác phẩm công trình nghiên cứu Versuche über Pflanzen-Hybriden (Thí Nghiệm Lai Giống Thực Vật) của Linh Mục Công Giáo người Đức Gregor Mendel (1822 – 1884), nhiều công trình nghiên cứu về vi sinh của Louis Pasteur (1822 – 1895) như sau.
“Études sur le Vin“ (Các nghiên cứu về rượu vang, 1866), “Études sur le Vinaigre” (Các nghiên cứu về giấm, 1868), “Études sur la Maladie des Vers à Soie” (2 volumes) (Các nghiên cứu về bệnh tằm tơ, 1870), “Quelques Réflexions sur la Science en France” (Suy Ngẫm về Khoa Học ở Pháp, 1871), “Études sur la Bière“ (Các nghiên cứu về bia, 1876), “Les Microbes organisés, leur rôle dans la Fermentation, la Putréfaction et la Contagion” (Tổ chức vi sinh vật, vai trò của chúng trong việc lên men, thối rữa, và nhiễm trùng, 1878), “Discours de Réception de M.L. Pasteur à l’Académie française” (Phát biểu của Mr L. Pasteur khi được tiếp nhận vào Viện hàm lâm Pháp (Académie française), 1882), “Traitement de la Rage” (Điều trị bệnh dại, 1886). – Trích nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Louis_Pasteur
Và còn nhiều vô số các công trình nghiên cứu khoa học từ Á sang Âu, từ Đông sang Tây, v.v. Nhìn vào lịch sử các khoa học trên thế giới người ta có thể thấy được rất nhiều tên tuổi của các Thiên Tài Khoa Học cống hiến cho lịch sử văn minh nhân loại.
Nhìn vào lịch sử các Danh Nho Ẩn Sĩ Việt Nam, những công trình về Lịch Sử, Địa Chí, Ngôn Ngữ, Giáo Dục, Văn Chương Thi Ca nhiều vô kể với những tên tuổi như Nguyễn Trãi, Lê Quí Đôn, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Phu Tiên, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, v.v. Sự ẩn cư (ở ẩn) hoặc “mai danh ẩn tích” của các Danh Sĩ hoàn toàn không phải là “sống thừa vô ích” và “tầm thường” như 4 câu thơ của mỗi 2 đoạn thơ mà Chế Lan Viên đã cảm tác rên rỉ như sau.
“[…] Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp.
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con.
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp.
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn. […]”
“[…] Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời.
Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khóa.
“Những pho tượng chùa Tây Phương” không biết cách trả lời.
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ…
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi! […]”
Lê Long, viết xong 18:00 Sài Gòn, thứ Tư ngày 15 tháng 10 năm 2025.
ThíchThích
明哲 MINH TRIẾT (The PHILOSOPHY of WISDOM) – 論文 Luận Văn (The Essay)
Từ Truyện Ký 孔子見老子 Khổng Tử Kiến Lão Tử – Khổng Tử Gặp Lão Tử – các học giả Tây phương đánh giá Lão Tử là Triết Gia KHÔN NGOAN nhất bởi vì ông không để bản thân trở thành CÔNG CỤ CHÍNH TRỊ của bất kỳ MƯU ĐỒ CHÍNH TRỊ từ bất kỳ LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ trong xã hội.
Đức Phật được các Triết Gia Tây phương xem là Triết Gia vĩ đại nhất vì ngài nói: “Thắng một đạo quân chưa phải là chiến thắng, thắng được BẢN NGÃ (EGO: cái TÔI) của bản thân mới là chiến thắng vĩ đại nhất.” Nghĩa là Đức Phật nhấn mạnh đến sự TU DƯỠNG (SELF – CULTIVATION) về TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) để con người TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH. Nguyên văn câu này như sau trong Kinh Nikāya bằng ngôn ngữ Pali.
“Attānañ ce piyaṃ jaññā,
rakkheyya naṃ surakkhitaṃ.
Tiṇṇaṃ aññataraṃ yāmaṃ,
paṭijaggeyya paṇḍito.
Attā hi attano nātho,
ko hi nātho paro siyā?
Attanā hi sudantena,
nāthaṃ labhati dullabhaṃ.”
— Aṅguttara Nikāya 5.3 (Yodhājīva Sutta)
Bản dịch Việt ngữ của Hòa Thượng Thích Minh Châu:
“Dầu có chiến thắng ngàn quân ở chiến trường,
cũng không bằng tự chiến thắng chính mình.
Tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất.”
(Kinh Tăng Chi Bộ, chương Năm Pháp, phẩm Người Chiến Sĩ — Aṅguttara Nikāya 5.3)
Aṅguttara Nikāya là bộ Kinh Điển của phái bộ Phật Giáo Nguyên Thủy tức 上座部 Thượng Tọa Bộ (Sthaviravāda, còn gọi Theravada) tự cho rằng duy trì nguyên văn giáo ngữ của Đức Phật – Chữ Theravada có nghĩa là “lời dạy của bậc trưởng thượng”.
Giáo sư Tiến Sĩ Toán Học Phạm Việt Hưng đề xuất ý kiến về TRIẾT HỌC (của sự) KHÔN NGOAN bằng Anh ngữ là The PHILOSOPHY of WISDOM, phạm trù Triết Học này ở Đông phương gọi là 明哲 MINH TRIẾT – chữ 明 MINH nghĩa là SÁNG được ghép từ chữ 日 NHẬT (mặt trời) và chữ 月 NGUYỆT (mặt trăng), chữ 哲 TRIẾT được ghép lại từ chữ 折 CHIẾT (tách ra) và chữ 口 KHẨU (cái miệng) hàm nghĩa PHÂN TÁCH và GIẢI THÍCH.
Người Nhật Bản đã dịch danh từ Philosophy (Anh ngữ), Philosophie (Pháp ngữ), Philosophia (Hy Lạp ngữ) sang Hán Việt là 哲學 Triết Học, trong tiếng Hy Lạp, Philo: TÌNH YÊU, Sophia: PHỨC TẠP, TINH VI, THÔNG THÁI, với ý nghĩa là YÊU MẾN SỰ THÔNG THÁI / YÊU MẾN SỰ HIỂU BIẾT, nếu dịch Hán Việt sát nghĩa là 好知 HẢO TRI / HIẾU TRI: HAM HIỂU BIẾT, người dùng danh từ này đầu tiên là nhà Toán Học Hy Lạp cổ đại Pythagore với ý nghĩa KHIÊM TỐN rằng YÊU MẾN SỰ THÔNG THÁI / YÊU MẾN SỰ HIỂU BIẾT, chứ không dám nhận mình là NGƯỜI CÓ HIỂU BIẾT.
Người Nhật Bản dịch danh từ Philosophy (Anh ngữ), Philosophie (Pháp ngữ), Philosophia (Hy Lạp ngữ) sang Hán Việt là 哲學 Triết Học chính là học giả người Nhật Bản にしあまね Nishi Amane (1829–1897) vào thập niên 1870 tại Đại Học Tokyo và phổ biến danh từ này ở Đông Á (Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam) đến ngày nay.
Các học giả và Triết Gia Tây phương vào đầu thế kỷ 20 cho rằng Đông phương bắt đầu từ vùng đất dải Gaza và khu vực Địa Trung Hải đến vùng Lưỡng Hà, Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa không có Triết Học mà chỉ có ĐẠO HỌC (The LEARNING of DAO, The STUDY of TAO) gắn liền với sự TU DƯỠNG (SELF – CULTIVATION) về TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) để con người TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH trong các tôn giáo (religion) ở Đông phương cổ đại, các tôn giáo đều có nguồn gốc xuất xứ ở Đông phương, Thiên Chúa Giáo với ba nhánh lớn là Do Thái Giáo (Judaism), Hồi Giáo (Islam) và Ki-tô Giáo hay Cơ Đốc Giáo (Christanity) từ Đức Jesus Christus (Giê-su Ki-tô) cũng xuất phát từ Đông phương, do Công Giáo (Catholic) bắt đầu từ Thánh Phê Rô (tiếng Anh: Peter, tiếng Hy Lạp: Petros có nghĩa là “Đá” tượng trưng cho “nền tảng” kiến tạo nên Hội Thánh Công Giáo La Mã) có Tòa Thánh Vatican ở Roma (La Mã) nên nhiều người nhận thức sai lầm rằng Công Giáo có nguồn gốc từ Tây phương.
(Chú thích:
Lưỡng Hà (Mesopotamia) là vùng đất lịch sử nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates, ngày nay chủ yếu thuộc lãnh thổ Iraq. Từ “Lưỡng Hà” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “vùng đất giữa hai con sông”. Khu vực này là cái nôi của nhiều nền văn minh cổ đại và là nơi ra đời của chữ viết cũng như các tri thức khoa học cổ xưa của nhân loại cho đến nay như Thiên Văn Học, Lịch Pháp (phép làm lịch) để xác định thời tiết khí hậu phục vụ nông nghiệp và các nghi lễ tôn giáo, Ngôn Ngữ Học, Toán Pháp (Toán Học) và Số Học, v.v.
Nhìn lịch sử các khoa học, có một sự liên hệ giữa tôn giáo (religion) và khoa học (science), các tri thức (knowledge) cổ xưa đều có nguồn gốc từ tôn giáo, nếu không muốn nói rằng khoa học xuất phát từ tôn giáo, nhiều nhà khoa học ngày nay nghĩ rằng khoa học và tôn giáo mâu thuẫn nhau vì khoa học là Thực Chứng Luận (Positivism) và tôn giáo là Đức Tin (Faith), đó là quan điểm hoàn toàn sai lầm và không chính xác trong tiến trình phát triển Tư Tưởng và Nhận Thức Luận (Epistemology) của nhân loại, các Thiên Tài khoa học là những người có Đức Tin tuyệt đối vào Đấng Sáng Tạo (Creator) tức Chúa Tể Vũ Trụ (Lord of The Universe). Có một phát ngôn thường được cho là do Louis Pasteur.
– «Un peu de science éloigne de Dieu, mais beaucoup de science y ramène.»
– «Little science takes you away from God, but more of it takes you to Him.»
– «Một chút khoa học khiến ta xa Chúa, nhưng nhiều khoa học lại đưa ta trở về với Ngài.»
Quan điểm sai lầm về sự mâu thuẫn giữa tôn giáo và khoa học dẫn đến xu hướng Vô Thần Luận (Atheism) và Duy Vật Luận (Materialism) trong Triết Học và khoa học nói chung.)
Triết Học, Tôn Giáo, Khoa Học và Giáo Dục đều có MỤC ĐÍCH tối hậu (sau cùng) là mang lại Hạnh Phúc thật sự cho con người trong cuộc lữ hành nơi trần thế. Hạnh Phúc là Sức Khỏe, Bình An, và Tự Do trong Ý Chí hành động, mọi thứ khác chỉ là CỨU CÁNH (PHƯƠNG TIỆN), sự nhầm lẫn giữa MỤC ĐÍCH và CỨU CÁNH là nguyên nhân của mọi khổ đau bất hạnh trong đời người.
Cái chết của Triết Gia Hy Lạp cổ đại Socrates vào cuối đời trong nhà tù cách đây 25 thế kỷ đã đặt ra vấn đề THÂN PHẬN (CONDITION) của con người và đặc biệt là người trí thức trước thời cuộc biến loạn khi ông bị bức tử phải uống chén thuốc độc với tội danh LÀM HƯ HỎNG THẾ HỆ THANH NIÊN THÀNH BANG ATHENS (ATHENS LÀ THỦ ĐÔ CỦA HY LẠP ĐẾN NGÀY NAY) chỉ vì Socrates dạy rằng trên hành trình tri thức phải biết ĐẶT CÂU HỎI tức là nhấn mạnh đến TƯ DUY ĐỘC LẬP, một người có nền học vấn và giáo dục căn bản thì TUYỆT ĐỐI KHÔNG NÓI THEO VÀ KHÔNG NÓI LEO, có TƯ DUY ĐỘC LẬP (The Independent Thinking) thì mới có TƯ DUY PHẢN BIỆN (The Critical Thinking) từ đó mới có TƯ DUY SÁNG TẠO (The Creative Thinking), bằng không thì một nền giáo dục của xã hội chỉ đào tạo ra những CỖ MÁY SUY NGHĨ thành MỘT KHUÔN đào tạo theo kiểu MUÔN NGƯỜI NHƯ MỘT.
TƯ DUY ĐỘC LẬP (The Independent Thinking) là QUAN YẾU KHỞI NGUYÊN cho mọi hành trình tri thức, cho nên Đức Phật dặn dò thế hệ mai sau: “Ai tin ta mà không hiểu ta, ấy là phỉ báng ta.” – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Học Triết Học và Lịch Sử Triết Học, Lịch Sử Tư Tưởng Nhân Loại không phải là học LÝ LUẬN (REASONING, THEORY) mà là học TÚI KHÔN của nhân loại từ những Tư Tưởng Gia thế giới từ Tây (Âu châu) sang Đông (Á châu), tức là nói đến vấn đề Nhận Thức Luận (Epistemology) để đánh giá lại các GIÁ TRỊ CỐT LÕI (CORE VALUES) trong tiến trình nhận thức của con người.
QUAN SÁT ĐÚNG – NHẬN THỨC ĐÚNG – TƯ DUY (SUY NGHĨ) ĐÚNG – HÀNH ĐỘNG ĐÚNG
Đó là mục đích của việc học Triết Học, tức Triết Học Thực Hành, Triết Học không chỉ của sự suy tư mà còn là Triết Học Hành Động. Karl Marx đã viết:
“Các nhà Triết Học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách, song vấn đề mấu chốt là cải tạo lại thế giới.” – K. Marx, Luận cương về Feuerbach.
Người ta nói Triết Học của Karl Marx là Triết Học Phê Bình / Triết Học Phê Phán (The Critical Philosophy) và hướng đến Thực Tiễn / Thực Hành (Karl Marx dùng từ ngữ Hy Lạp là Praxis tức Pratiquer trong tiếng Pháp và trong tiếng Anh là Practice), Triết Học của Karl Marx là Triết Lý Hành Động.
Tư Tưởng nền tảng của Kinh Thánh trong Công Giáo cũng có hàm ý “con người cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo và cứu độ” để “cải tạo lại thế giới”.
“For we are co-workers in God’s service; you are God’s field, God’s building.” – 1 Corinthians 3:9
“Chúng ta là những người cộng tác với Thiên Chúa; anh em là thửa đất của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây dựng.” – 1 Cô-rinh-tô 3:9
“The one who sat on the throne said, ‘Behold, I make all things new.’” – Revelation 21:5
“Đấng ngự trên ngai phán: Này đây, Ta đổi mới mọi sự.” – Khải Huyền 21:5
Mục tiêu tối hậu của Công Trình Cứu Độ (Salvation) là “Sáng Tạo Mới” – “New Creation”.
Trong văn chương kịch nghệ Trung Hoa cổ đại, tương truyền có các phát ngôn của Tư Mã Ý lưu hạ (dưới đây), do vậy Tư Mã Ý được xem là một Mưu Lược Gia về Chiến Lược trong Tung Hoành Thuyết.
司馬懿言出曰:
Tư Mã Ý ngôn xuất viết:
Tư Mã Ý có nói rằng:
1.
雕章琢句算什幺,懂得審時度勢、相機行事,乃更高境界。而達到此境界的公子還裝作一無所知,善于韜晦藏拙,潛龍。
Điêu chương trác cú toán thập yêu, đổng đắc thẩm thì độ thế, tương cơ hành sự, nãi canh cao cảnh giới. Nhi đạt đáo thử cảnh giới đích công tử hoàn trang tác nhất vô sở tri, thiện ư thao hối tàng chuyết – tiềm long.
Gọt giũa câu chữ thì có là gì, biết xét thời thế, và tùy cơ hành động mới là cảnh giới cao hơn. Còn người đạt đến cảnh giới ấy lại giả vờ như chẳng biết gì, khéo che giấu tài năng làm như vụng về kém cỏi – đó là rồng ẩn (tiềm long).
2.
雕章琢句算什幺,懂得審時度勢、相機行事/見機行事,乃更高境界;真正聰明的人應該讓人看不出他的聰明。
Điêu chương trác cú toán thập yêu, đổng đắc thẩm thì độ thế, tương cơ hành sự /kiến cơ hành sự, nãi canh cao cảnh giới; chân chính thông minh đích nhân ứng cai nhượng nhân khán bất xuất tha đích thông minh.
Gọt giũa câu chữ thì có là gì, biết xét thời thế, và ứng biến tùy cơ, mới là cảnh giới cao hơn; người thật sự thông minh là người khiến người khác không nhận ra sự thông minh của mình.
3.
真正聰明的人,應該讓人看不出他的聰明。智者務其實,愚者爭虛名。雕章琢句算什幺,懂得審時度勢、相機行事,乃更高境界。
Chân chính thông minh đích nhân, ứng cai nhượng nhân khán bất xuất tha đích thông minh. Trí giả vụ kỳ thực, ngu giả tranh hư danh. Điêu chương trác cú toán thập yêu, đổng đắc thẩm thì độ thế, tương cơ hành sự, nãi canh cao cảnh giới.
Người thật sự thông minh, là người khiến kẻ khác không nhận ra sự thông minh của mình. Bậc trí giả lo cái thực, kẻ ngu si tranh cái hư danh. Gọt giũa lời văn chữ nghĩa thì có là gì, biết xét thời thế, và tùy cơ hành động, mới là cảnh giới cao hơn.
Đại ý các câu nói trên rằng: “Giỏi văn chương chữ nghĩa thi ca, hoặc đàn ca xướng hát, võ nghệ tranh hùng, v.v. tất cả chỉ là “tài mọn” (“tài nhỏ lặt vặt”), cái thực học của bậc trí giả là quan sát thời cuộc và tìm cách thay đổi thời thế đại cục.”
Đông Tây Tư Tưởng gặp nhau !!!
All the Road come to Rome. – Tất cả mọi con đường đều đi đến thành La Mã.
Nhưng có một sự KHÁC BIỆT trong HÀNH ĐỘNG của bậc Thánh Giả / Thánh Trí / Hiền Giả MINH TRIẾT có sự TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) về TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) và những Học Giả / Trí Thức có hoài bão 經邦濟世 KINH BANG TẾ THẾ (DỰNG NƯỚC GIÚP ĐỜI), ở Trung Hoa cổ đại người ta gọi đó là 出處 Xuất Xử, nghĩa là ra làm quan gia nhập vào quan trường hoặc lui về ẩn cư (ở ẩn).
Người ta nói, trong tâm hồn mỗi người Trung Hoa là một ông Khổng và một ông Lão tức là nói đến Khổng Tử và Lão Tử, Khổng Tử đại diện cho người có học thức có hoài bão và ý chí trong đời sống xã hội được gọi là NHẬP THẾ (VÀO ĐỜI) khi còn trẻ sung sức đầy nhiệt huyết và tài năng, Lão Tử đại diện cho bậc Hiền Giả không màng DANH LỢI trong đời sống thế tục được gọi là XUẤT THẾ (LÁNH ĐỜI) sau khi đã trải qua thăng trầm Hỉ (vui), Nộ (giận), Ái (yêu), Ố (ghét) trong cuộc đời mà NHẬN CHÂN đâu là CHÂN TRỊ (GIÁ TRỊ THẬT) của cuộc đời !!!
DANH – LỢI – SẮC – TÌNH
Đó là toàn bộ hành trình hoạt động trong đời người bình thường phải trải qua.
DANH là DANH VỌNG, là sự TUNG HÔ TÁN DƯƠNG.
LỢI là LỢI LỘC và QUYỀN LỰC phát sinh ra QUYỀN LỢI tiền tài vậc chất tài sản.
SẮC là NỮ SẮC là SẮC ĐẸP của NỮ NHÂN hấp dẫn (quyến rũ).
TÌNH là ÁI TÌNH giữa nam nữ và TÌNH THÂN ruột thịt máu mủ giữa cha mẹ và con cái, anh em ruột thịt.
Một Nguyễn Công Trứ của Việt Nam cảm khái như một ông Khổng khi còn trẻ.
“[…] Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông […]”
Chú thích:
Đi Thi Tự Vịnh – sáng tác: Nguyễn Công Trứ
Đi không, há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng
(Trích bài thơ Đi Thi Tự Vịnh, Nguyễn Công Trứ)
Đến khi về già, Nguyễn Công Trứ sau khi nếm trải qua đủ mùi vị “lên voi xuống chó” và vui buồn cay đắng của cuộc đời lại cảm khái theo cách khác như một ông Lão.
“[…] Kiếp sau xin chớ làm người,
làm cây thông đứng giữa trời mà reo. […]”
Chú thích:
Vịnh Cây Thông – sáng tác: Nguyễn Công Trứ
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thời trèo với thông.
英雄難過美人關 Anh hùng nan quá mỹ nhân quan – Người Anh hùng khó qua cửa ải phụ nữ xinh đẹp
Một Hạng Vũ “anh hùng cái thế” phải chết vì Ngu Cơ và một Lã Bố “thiên hạ vô địch vũ dũng” chết vì Điêu Thuyền.
Góc khuất trong cuộc đời của những con người kiệt xuất và góc khuất trong đời sống tinh thần của người Trí Thức khiến cho những bậc Trí Giả phải suy nghĩ về vấn đề THÂN PHẬN (CONDITION) của con người. Tài năng và học thức, học vấn uyên thâm, kiến thức phong phú, giàu sang phú quý, tất cả như bọt bèo phù du (trôi nổi) … !!!
Con đường CÔNG DANH SỰ NGHIỆP và TRI THỨC NGOẠI GIỚI (sự hiểu biết về thế giới tự nhiên bên ngoài của Khoa Học và Kỹ Nghệ), tài sản cao như núi cũng không thể nào lấp đầy KHOẢNG TRỐNG trong tâm hồn, sự THỂ HIỆN ra ngoài của KHÍ PHÁCH và TINH ANH cũng chỉ phản ánh nỗi BẤT AN trong tâm hồn, chỉ có sự TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) của đời sống TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) và ĐẠO ĐỨC mới đem lại sự BÌNH AN và TRÍ TUỆ thật sự cho con người – TU là SỬA TRỊ bản thân và sự khiếm khuyết của tâm hồn, DƯỠNG là phát triển những nhân tố tích cực của TÂM TÁNH con người.
“[…] Sư rằng: ‘Phúc họa đạo trời,
‘Cội nguồn’ cũng ở lòng người mà ra.
‘Có trời mà cũng tại ta,
‘TU là cội phúc TÌNH là dây oan. […]”
(Trích cuộc gặp gỡ giữa sư Giác Duyên và Thúy Kiều, Truyện Kiều, Nguyễn Du)
XUẤT THẾ (LÁNH ĐỜI) để TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) cũng là 節操 TIẾT THÁO: VỮNG LÒNG của bậc QUÂN TỬ bảo vệ LÝ TƯỞNG và CHÂN LÝ của mình, danh từ QUÂN TỬ do Khổng Tử đưa ra mà theo Giáo Sư Tiến Sỹ Toán Học Phạm Việt Hưng giải thích là người có 德行 Đức Hạnh và 品質 Phẩm Chất (品行 Phẩm Hạnh) CAO QUÝ được dịch Anh ngữ là NOBLE (QUÝ TỘC, CAO QUÝ) chứ không phải là QUÝ TỘC GIÀU CÓ NHIỀU TIỀN CỦA, Trí Thức là Khoa Học Gia có Phẩm Hạnh chứ không phải là người chỉ lo dùng kiến thức để làm giàu.
Một Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xa rời đời sống thế tục và quan trường đầy dẫy 是非 Thị Phi (khen chê), chọn nơi 鄉村 hương thôn (làng quê) với cuộc sống 簡易 giản dị (không rắc rối) và 清貧 thanh bần (nghèo mà trong sạch yên bình, thanh bình).
“[…] Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ …
Người khôn người đến chốn lao xao […]”
Chú thích:
Cảnh Nhàn – sáng tác: Nguyễn Bỉnh Khiêm
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến bóng cây ta hãy uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
(Trích Trình Quốc Công Bạch Vân Am Thi Tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm.)
自古至今 Tự cổ chí Kim (từ xưa đến nay), trải dài từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu, các bậc Hiền Giả và Danh Sĩ luôn “quay về chính mình” và tránh xa vòng DANH LỢI SẮC TÌNH lao xao.
Sức mạnh là Tri Thức (Knowledge) là “chân lý” trong việc “định hình” lại thế giới ngày nay, người ta gọi đó là “Quyền Lực Mềm” (“Soft Power”) trong việc quản lý và thống trị, thậm chí là thao túng thế giới và con người.
Chú thích:
Quyền Lực Mềm (Soft Power) là một khái niệm do giáo sư người Mỹ Joseph Samuel Nye, Jr. (1937-nay) ở đại học Harvard đưa ra lần đầu tiên trong một quyển sách phát hành năm 1990, Bound to Lead: The Changing Nature of American Power (Sứ Mệnh Lãnh Đạo: Bản Chất Đang Thay Đổi Của Quyền Lực Hoa Kỳ). Ông giải thích rõ hơn về khái niệm này trong quyển sách phát hành năm 2004, Soft Power: The Means to Success in World Politics.(Quyền Lực Mềm: Phương Tiện Đi Đến Thành Công Trong Chính Trị Thế Giới).
Tiếc thay! Đó chỉ là ảo ảnh và ngộ nhận! Chừng nào mà “thế giới bên trong” (nội tại) của tâm hồn chưa yên ắng thì chừng đó con người chỉ thấy sự bất an và phiền não khổ sở … !!! “[…]‘Cội nguồn’ cũng ở lòng người mà ra. […]”(Trích cuộc gặp gỡ giữa sư Giác Duyên và Thúy Kiều, Truyện Kiều, Nguyễn Du). Tri Thức Khoa Học chưa đủ, phải có sự TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) của đời sống TÂM LINH / TINH THẦN (SPIRITUALITY) và ĐẠO ĐỨC mới đem lại sự BÌNH AN và TRÍ TUỆ thật sự cho con người.
“Le science sans conscience n’est que ruine de l’âme.” (“Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ là sự tàn lụi của tâm hồn.”) – Văn sĩ Pháp François Rabelais (1483–1553).
Tri Thức Khoa Học chỉ là sự hiểu biết (understanding) bên ngoài (ngoại giới), thế giới tinh thần bên trong (nội tại) của con người mới thật sự là hiểu biết trọn vẹn hơn.
“Men go abroad to wonder at the heights of mountains, at the huge waves of the sea, at the long courses of the rivers, at the vast compass of the ocean, at the circular motions of the stars, and they pass by themselves without wondering.” (St. Augustine)
“Người ta thường bàng hoàng ngây ngất trước cảnh quan những rặng núi cao hùng vĩ, những ngọn sóng bao la của biển cả, những dòng sông chảy dài miên man không dứt, những “tấm thảm” đại dương mênh mông, những chu kỳ chuyển động không ngừng của các tinh tú trong vũ trụ, thế mà con người lại bỏ qua chính mình mà không hề tự vấn.” (Thánh Augustine)
Chú ý đến thế giới tinh thần bên trong (nội tại) của con người chính là “quay về chính mình”.
1- “Tout ce que je sais, c’est que je ne sais rien.” – “The only thing I know is that I know nothing at all.” – “Điều duy nhất mà tôi biết là tôi không biết gì cả.” – Socrates
2- “L’homme! Connais-toi toi-même!” – “Man! Know Thyself!” – “Hỡi con người! Hãy tự biết mình!” – Socrates
Là sự rèn luyện và TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) thế giới tinh thần bên trong (nội tại) của con người. Trung Hoa có câu ngạn ngữ sau.
先責己,後責人 – Tiên trách kỷ, hậu trách nhân – Trước tiên hãy tự trách mình, sau mới trách người khác.
子曰:君子求諸己,小人求諸人。(論語,衛靈公篇)
Tử viết: “Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân.” (Luận Ngữ, Vệ Linh Công thiên)
Khổng Tử nói: “Người quân tử tìm lỗi ở chính mình; kẻ tiểu nhân tìm lỗi ở người khác.” (sách Luận Ngữ, thiên Vệ Linh Công)
孟子曰:富貴不能淫,貧賤不能移,威武不能屈,此之謂大丈夫。
Mạnh Tử viết: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu.”
Mạnh Tử nói rằng: “Giàu sang mà không hoang đàng xa xỉ, nghèo khổ mà không đổi chí khí, quyề lực không làm khuất phục, đó gọi là bậc đại trượng phu.”
(Trích sách 孟子 Mạnh Tử, thiên 滕文公下 Tằng Văn Công Hạ.)
Tư Tưởng của Đạo Gia (Daoism, Taoism) trường phái Triết Học của Lão Trang, Đạo Lý ở đời là
柔勝剛,弱勝強。天下莫不知,莫能行。
NHU THẮNG CƯƠNG, NHƯỢC THẮNG CƯỜNG. Thiên hạ mạc bất tri, mạc năng hành.
MỀM THẮNG CỨNG, YẾU THẮNG MẠNH. Ai trong thiên hạ cũng biết điều ấy, nhưng ít ai làm được.
(Trích 道德經 Đạo Đức Kinh, Lão Tử.)
Ý nghĩa triết học:
以大義而勝兇殘,以智仁而易強暴。(平吳大誥,阮廌)
“Dĩ Đại Nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ Trí Nhân nhi dịch cường bạo.” (Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi.)
“Lấy Đại Nghĩa thắng hung tàn, lấy Trí Nhân thay cường bạo.” (Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi.)
Chúa Giê-su Ki-tô (Jesus Christus) được những người Pharisees dẫn đến một người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình. Họ muốn thử Ngài, xem có đồng ý ném đá theo luật Moyses không. Chúa chỉ nói câu sau, khiến mọi người lần lượt bỏ đi, vì không ai dám tự cho mình vô tội.
“Qui sine peccato est vestrum, primus in illam lapidem mittat.” – Jesus Christus, Ioannes 8:7 (Novum Testamentum)
“He that is without sin among you, let him first cast a stone at her.” – Jesus Christ, John 8:7 (New Testament)
“Ai trong các ngươi không có tội, hãy ném đá chị này trước đi.” – Chúa Giê-su Ki-tô, Gioan 8:7 (Tân Ước)
Đó là tinh thần trung tâm của Kitô giáo (Christianity): Tha thứ, khiêm nhường, và tránh phán xét người khác.
“Quia omnis, qui se exaltat, humiliabitur; et, qui se humiliat, exaltabitur.” – Matthew 23:12, Luke 14:11, Luke 18:14
“For whoever exalts himself will be humbled, and whoever humbles himself will be exalted.” – Matthew 23:12, Luke 14:11, Luke 18:14
“Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.” – Matthêu 23:12, Luca 14:11, Luca 18:14
Vấn đề ẩn cư (ở ẩn) của các Danh Sĩ không chỉ là XUẤT THẾ (LÁNH ĐỜI) để AN PHẬN THỦ THƯỜNG và TU DƯỠNG (SELF-CULTIVATION) để lại những GIÁ TRỊ GIÁO DỤC TINH THẦN cho nhân loại như các Tư Tưởng Gia và Triết Gia mà là chọn một hướng đi trong cuộc đời bằng cách cống hiến trọn đời tận tụy cho các lãnh vực khoa học với các phát minh về Tư Tưởng Khoa Học như các Khoa Học Gia, các Công Trình Tuyệt Tác Khoa Học, các công trình về Ngôn Ngữ Học và Văn Chương Thi Ca, Lịch Sử, Địa Lý, Toán Học, Vật Lý Học, Hóa Học, v.v. đặc biệt là về Y Thuật ở Trung Hoa cổ đại như 傷寒雜病論 Thương Hàn Tạp Bệnh Luận 張仲景 của Trương Trọng Cảnh (159 – 216) thời triều Đông Hán, 名醫別錄 Danh Y Biệt Lục của 陶弘景 Đào Hoằng Cảnh (456 – 536) thời Nam Bắc triều, 備急千金要方 Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương của 孫思邈 Tôn Tư Mạc (541 – 682) thời triều Đường, 本草綱目 Bản Thảo Cương Mục của 李時珍 Lý Thời Trân (1518 – 1593) thời triều Minh, v.v. ở Việt Nam có tác phẩm 海上醫宗心領 Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh của lương y Lê Hữu Trác (1720 – 1791), ở Hy Lạp cổ đại có Hippocratic Corpus (Hyppocrates Toàn Tập) của ông tổ Tây Y Hyppocrates (460 –370 TCN), tác phẩm công trình nghiên cứu Versuche über Pflanzen-Hybriden (Thí Nghiệm Lai Giống Thực Vật) của Linh Mục Công Giáo người Đức Gregor Mendel (1822 – 1884), nhiều công trình nghiên cứu về vi sinh của Louis Pasteur (1822 – 1895) như sau.
“Études sur le Vin“ (Các nghiên cứu về rượu vang, 1866), “Études sur le Vinaigre” (Các nghiên cứu về giấm, 1868), “Études sur la Maladie des Vers à Soie” (2 volumes) (Các nghiên cứu về bệnh tằm tơ, 1870), “Quelques Réflexions sur la Science en France” (Suy Ngẫm về Khoa Học ở Pháp, 1871), “Études sur la Bière“ (Các nghiên cứu về bia, 1876), “Les Microbes organisés, leur rôle dans la Fermentation, la Putréfaction et la Contagion” (Tổ chức vi sinh vật, vai trò của chúng trong việc lên men, thối rữa, và nhiễm trùng, 1878), “Discours de Réception de M.L. Pasteur à l’Académie française” (Phát biểu của Mr L. Pasteur khi được tiếp nhận vào Viện hàm lâm Pháp (Académie française), 1882), “Traitement de la Rage” (Điều trị bệnh dại, 1886). – Trích nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Louis_Pasteur
Và còn nhiều vô số các công trình nghiên cứu khoa học từ Á sang Âu, từ Đông sang Tây, v.v. Nhìn vào lịch sử các khoa học trên thế giới người ta có thể thấy được rất nhiều tên tuổi của các Thiên Tài Khoa Học cống hiến cho lịch sử văn minh nhân loại.
Nhìn vào lịch sử các Danh Nho Ẩn Sĩ Việt Nam, những công trình về Lịch Sử, Địa Chí, Ngôn Ngữ, Giáo Dục, Văn Chương Thi Ca nhiều vô kể với những tên tuổi như Nguyễn Trãi, Lê Quí Đôn, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Phu Tiên, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, v.v. Sự ẩn cư (ở ẩn) hoặc “mai danh ẩn tích” của các Danh Sĩ hoàn toàn không phải là “sống thừa vô ích” và “tầm thường” như 4 câu thơ của mỗi 2 đoạn thơ mà Chế Lan Viên đã cảm tác rên rỉ như sau.
“[…] Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp.
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con.
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp.
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn. […]”
“[…] Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời.
Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khóa.
“Những pho tượng chùa Tây Phương” không biết cách trả lời.
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ…
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi! […]”
Lê Long, viết xong 18:00 Sài Gòn, thứ Tư ngày 15 tháng 10 năm 2025.
ThíchThích