Về loạt bài “Đâu là bản chất đích thực của con người ?”

LA THIẾU BÌNH: Tâm như hư không vô sở hữu (theo cách nói của Long Thọ Bồ Tát) hay Phật tánh, hay Giác tánh, hay Thượng Đế (vô ngã), hay là Trời (nói theo Nho giáo), mới chính là bản chất đích thực của con người và cũng là của vạn vật, Thiền còn gọi nó là bổn lai diện mục, vốn vô sinh vô diệt, sẵn có trước khi cha mẹ chưa sinh ra ta[1]

Theo Phật giáo (PG), chỗ tận cùng bản chất con người là Phật tánh. Phật là người giác ngộ, Phật tánh là tánh giác ngộ hay giác tánh. Giác tánh là tánh biết bất nhị, bất nhị là không phải hai cũng không phải là một. Bất nhị là không có người biết (năng tri) cũng không có cái được biết (sở tri). Để hiểu rõ về tánh bất nhị, xin hãy xem lại hiện tượng rối lượng tử (entanglement). Thiên nhiên có thể tạo ra đồng thời hai hay nhiều hạt photon, chúng có thể ở tại những vị trí cách xa nhau, khi một hạt bị tác động, tức thời các hạt khác cũng bị tác động y hệt, không mất chút thời gian nào, bất kể khoảng cách là bao xa. Hiện tượng này bộc lộ nhiều tính chất mà chúng ta khó tưởng tượng nổi :

1.         Tính bất nhị, nghĩa là không có số lượng, hay số lượng chỉ là tưởng tượng chứ không có thật. Ta nói chỉ có một photon hay có nhiều photon đều không đúng. Thật tế là không thể xác định được. Vì vậy trong Kinh nói “Phàm cái gì có thể nói ra (hay xác định) đều không có nghĩa thật”. Cũng vì vậy, Đức Phật sau 49 năm đi thuyết pháp, giảng không biết bao nhiêu bộ kinh, trước khi nhập diệt, đã tuyên bố : “ Ta chưa hề nói một chữ nào”.

2.         Tính không thật của không gian. Khoảng cách không gian là không có thật, chỉ có trong tâm thức mà thôi. Chính vì vậy, hạt photon đã không mất chút thời gian nào để truyền tín hiệu sang hạt khác, hay không hề có việc truyền tín hiệu đi, nếu có thì thật là phi lý, vì chẳng lẽ tín hiệu truyền đi với tốc độ gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng ?

3.         Tính không thật của thời gian. Thời gian cũng chỉ là sản phẩm của tâm thức chứ không có thật. Bởi vì thời gian là một chiều kích gắn liền với không gian, nên không gian không thật thì thời gian cũng không thật. Thuyết tương đối của Einstein cũng nói rằng thời gian có thể co dãn. Câu chuyện nghịch lý về hai anh em song sinh của Langevin minh thị ý nghĩa thời gian có thể co dãn, thời gian khác nhau ở hai hệ qui chiếu khác nhau. Thiền sử Trung Hoa có kể 2 câu chuyện thực nghiệm về thời gian không thật. Nhà sư Huệ Trì 慧持 là em ruột của Tổ Tịnh Độ tông Huệ Viễn (慧遠 334~416 ) sống vào đời Tấn ở Trung Quốc.

Khi Huệ Viễn tổ chức một thời pháp Niệm Phật ở Lư Sơn thuộc tỉnh Giang Tây thì Huệ Trì từ giã anh, đi vân du ở Tứ Xuyên, thấy có một bọng cây lớn, ông vào ngồi nhập định, hoàn toàn không biết về tất cả mọi việc xảy ra. Cửa bọng cây lâu ngày khép lại, ông cũng không hay. Đến khi cây bị sét đánh, bọng cây bị vỡ, ông té ra ngoài, cũng không hay biết. Trẻ mục đồng nhìn thấy ông, chúng gọi người đến, ông vẫn còn nhập định. Người ta đưa ông đến kinh đô, tại đây có các thiền sư, họ làm cho ông xuất định. Ông nói rõ tên họ và xác định mình là em ruột của Huệ Viễn, một người nổi tiếng, và hỏi thăm ông anh ra sao. Mọi người vô cùng kinh ngạc vì Huệ Viễn đã tịch hơn 700 năm rồi. Họ hỏi ông nhập định bao lâu. Ông nói mới có một lát thôi mà. Như vậy đối với Huệ Trì thời gian hơn 700 năm là không có.

Câu chuyện thứ hai là về Hư Vân 虚云lão hòa thượng (1840-1959) của thời hiện đại.

Ông cùng các vị đồng tu ở trên núi Chung Nam 终南山, gần Trường An, quanh năm phủ tuyết, mỗi người ở một cái cốc cách xa nhau, thức ăn chỉ đào những củ khoai rất cứng trên núi, người thường ăn không nổi. Một hôm, ông bỏ củ khoai vào nồi nấu rồi ngồi nhập định lúc nào chẳng hay. Lúc đó vào dịp Tết, những người bạn đồng tu ở xung quanh thấy lâu không gặp, bèn rủ nhau đến thăm, thấy ông đang nhập định, liền búng lỗ tai khiến ông xuất định và hỏi ông nhập định bao lâu rồi. Ông đáp: “Mới hồi nảy, chắc nồi khoai đã chín rồi”. Nhưng khi mở nắp nồi thấy mốc đã lên cao, chứng tỏ nửa tháng đã trôi qua. Như vậy đối với Hư Vân thời gian nửa tháng là không có.

Hai câu chuyện trên chứng tỏ thời gian là sản phẩm của tâm thức chứ không phải thật. Các thiền sư nhập định sâu tận tiềm thức, tâm thức ngừng hoạt động thì thời gian cũng ngừng. Nếu Câu chuyện nghịch lý của Langevin chỉ là tưởng tượng dựa trên cơ sở khoa học, thì hai câu chuyện trên là thực nghiệm người thật việc thật. Hư Vân sống cùng thời đại với chúng ta và thọ tới 120 tuổi.

Giác tánh vô hình, vô tướng, không hạn lượng, mới đích thực là bản chất của con người cũng như của vạn vật. Giác tánh có những tính chất như thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc và suy tưởng. Những tính chất này bất biến, vô sinh, vô diệt, và do đó vô thủy, vô chung.  Chính giác tánh hướng dẫn cho vật chất cấu thành lục căn tức 6 cơ quan nhận thức của sinh vật và con người, là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và bộ não. Lục căn tiếp xúc với lục trần, là : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; sinh ra lục thức là 6 loại nhận thức   nói trên, trong đó tư duy là một loại nhận thức cao cấp rất phát triển ở con người.

Theo PG, thì thế giới vạn vật chỉ là ảo giác chứ không có thật. Thuyết thập nhị nhân duyên của PG, nói vạn vật có nguồn gốc là vô minh. Vô minh là lầm lạc vì không thấy rõ, không hiểu rõ, bị mê mờ. Mà vật lý lượng tử ngày nay cũng không nói khác. Quark, electron chỉ là những hạt ảo, chúng không tồn tại khi bị cô lập, chúng chỉ tồn tại trong quan hệ tương tác với nhau và phải được cảm nhận bằng ý thức, trực tiếp qua các giác quan hoặc gián tiếp qua các thiết bị.

Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922)  nói “Isolated material particles are abstractions” (1) (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).

Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (2) (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).

Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết : “The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality” (3) (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực tại).

Vì tính chất đồng bộ của lục căn, lục trần, lục thức (18 cảnh giới) nên ta tưởng vật chất là có thật, chứ thật ra vật chất chỉ là cảm giác, là thông tin chứ không phải thật.

Khoa học chỉ dựa trên tư duy lô gích của bộ não thuộc bán cầu trái, hay dù cảm nhận trực giác  bằng bán cầu phải thì nhận thức cũng đã bị cơ chế ảo hóa của 18 cảnh giới làm cho lầm lạc, không bao giờ thấy được bản chất. Ví dụ ta thấy và cảm nhận vật chất, màu sắc, nước…, đó chỉ là tâm thức tổng hợp từ 6 giác quan, nhà khoa học ắt hẳn biết rõ là chúng không có thật, bản chất của chúng là gì thì cũng không xác định được, quark, electron cũng không hẳn là có thật.

Tóm lại quark, electron tạo ra những cấu trúc ảo, đó là nguyên tử của các nguyên tố, là phân tử vô cơ và hữu cơ, là chất sống như acid amin, protein, glucid, lipid, protid, DNA…là sơn hà đại địa, nhà cửa, xe cộ, mặt trời, hành tinh, thiên hà, vũ trụ. Một loại cấu trúc ảo khác là lục căn trong đó xuất sắc nhất là bộ não người. Lục căn là cấu trúc tuyệt vời của giác tánh, nó là cơ chế phát sinh ra nhất niệm vô minh, nhất niệm vô minh nối tiếp nhau liên tục tạo thành dòng nhận thức, suy nghĩ, tư tưởng, hệ tư tưởng, văn hóa, văn minh của nhân loại. Đối tượng của nhất niệm vô minh cũng là những cấu trúc ảo khác của vật chất và cả phi vật chất. Những cấu trúc ảo của vật chất này, nhà triết học Immanuel Kant (1724-1804) gọi là vật tự thể (Das Ding an Sich) bất khả tri. Cái khả tri qua nhận thức của lục căn thì đã bị ảo hóa không còn đúng thực tế nữa. PG gọi cấu trúc ảo của vật chất và phi vật chất là vô thủy vô minh. Thiền gọi vô thủy vô minh là thoại đầu. Vô thủy vô minh và nhất niệm vô minh là hai chìa khóa của cơ chế ảo hóa làm phát sinh vũ trụ vạn vật. Bản chất của vạn vật hay bản chất của con người là giác tánh. PG còn gọi nó là tánh Không của vạn hữu, hay còn gọi là Tâm. Kinh Phật nói “Nhất thiết duy tâm sở tạo” (Tất cả đều do tâm tạo) là nghĩa như vậy. Tham thiền hay tham thoại đầu là tự mình chứng được, ngộ được vô thủy vô minh và nhất niệm vô minh đích thực là bản chất của vũ trụ vạn vật, chúng không là gì cả mà cũng là tất cả. Khi làm chủ được rồi thì tự nhiên vận dụng được thần thông, sinh tử tự do, hay làm chủ được sinh tử, thoát khỏi luân hồi sinh tử, tùy ý sinh hay tử ở bất cứ đâu, bất cứ cảnh giới nào, dù cách xa địa cầu bao nhiêu tỉ quang niên cũng không thành vấn đề, vì tất cả mọi cảnh giới đều là duy tâm sở tạo. Lịch sử Thiền tông Trung Hoa ghi nhận có hơn 5000 người chứng được như vậy, Thiền gọi là kiến tánh. Nổi bật trong số đó là các vị Tổ Sư Thiền. Bên Ấn Độ sau Đức Phật, có 28 vị Tổ Sư, Sơ Tổ Ca Diếp, Nhị Tổ A Nan…Tổ 14 là Long Thọ Bồ Tát, Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma bắt đầu sang Trung Quốc truyền Đạo Thiền, làm Sơ Tổ tại TQ. Truyền cho nhị Tổ Huệ Khả, tam Tổ Tăng Xán, tứ Tổ Đạo Tín, ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, lục Tổ Huệ Năng. Sau Huệ Năng, số người kiến tánh nhiều không kể xiết như Vĩnh Gia Huyền Giác, Huỳnh Bá Hy Vận, Lâm Tế Nghĩa Huyền, Đức Sơn Tuyên Giám, Nam Nhạc Hoài Nhượng, Pháp Nhãn Văn Ích…Thời hiện đại thì có Hư Vân Hòa thượng, Lai Quả Thiền sư, Nguyệt Khê Thiền sư…Đời Minh có Hám Sơn, Đơn Điền (hai vị này còn để lại nhục thân bất hoại, cùng với nhục thân của Huệ Năng, được thờ tại chùa Nam Hoa gần thị trấn Thiều Quan, cách Quảng Châu khoảng 200km về phía bắc).  Hàng cư sĩ tại gia cũng có người kiến tánh, bên Ấn Độ có cư sĩ Duy Ma Cật, bên Trung Quốc có cả gia đình Bàng Uẩn gồm 4 người, nhà thơ Hoàng Đình Kiên…Người nữ cũng có kiến tánh, như vợ và con gái của Bàng Uẩn, bà già bán thức ăn điểm tâm, người đã giúp cho Đức Sơn Tuyên Giám kiến tánh…

Kết luận : Tâm như hư không vô sở hữu (theo cách nói của Long Thọ Bồ Tát) hay Phật tánh, hay Giác tánh, hay Thượng Đế (vô ngã), hay là Trời (nói theo Nho giáo), mới chính là bản chất đích thực của con người và cũng là của vạn vật, Thiền còn gọi nó là bổn lai diện mục, vốn vô sinh vô diệt, sẵn có trước khi cha mẹ chưa sinh ra ta.

“Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (Descartes) hay “Tôi cảm thụ, vậy tôi tồn tại” (Louis Lavelle) chỉ là sự tồn tại của cái ta giả do vô minh kiến lập. “Tôi tư duy, vậy tôi không tồn tại” (Jean Paul Sartre) là không thừa nhận cái ta giả, cái ta giả chỉ là vọng tưởng do vô minh kiến lập, không phải thật. Nhưng Sartre không thân chứng được cái ta thật, tức bản chất đích thực của con người là gì, nên không thể tự giải thoát được. Trong L’Être et le Néant (Thực thể và Hư vô, 1943) tác phẩm triết học chính của ông, có nhiều sai lầm. Một trong các sai lầm căn bản của ông là cho rằng L’être est. L’être est en soi. L’être est ce qu’il est. (Thực-thể là. Thực-thể tự-tại. Thực-thể là cái gì nó là.) Nói thế tức là cho rằng vật chất tự nó tồn tại độc lập ngoài tâm thức, điều mà các nhà khoa học hàng đầu thế giới hiện nay đã chỉ ra là không đúng. Phật pháp nói thực thể (vật chất chẳng hạn) cũng không phải là thực thể. Hư vô cũng không phải là hư vô.  Cái gì có thể nghĩ, có thể nói đều không có nghĩa thật. Cả chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa hư vô đều là biên kiến (lệch một bên) không phải trung đạo, và đều là bệnh.

Trân trọng kính chào

La Thiếu Bình

(1), (2), (3) trích trong “Religion and the quantum world” của Giáo sư Keith Ward phát biểu tại  Gresham College ngày 09/03/2005.


[1] Bài viết này là thư của ông La Thiếu Bình gửi tác giả Phạm Việt Hưng. Thư mở đầu như sau:

“Anh Phạm Việt Hưng thân mến,

Trước hết xin cám ơn anh đã gởi cho tôi đường dẫn đến blog của anh. Tôi đã đọc hết 4 bài về đề tài trên của anh, nay xin mạo muội góp ý đôi lời. Đề tài của anh là rất hay, nhưng tôi muốn đào sâu hơn nữa, đi đến chỗ tận cùng của bản chất con người. Tôi dựa vào Kinh điển Phật giáo (PG) để xin phép mạn đàm với anh, nếu có sơ suất, xin thứ lỗi …”.

Advertisement

4 thoughts on “Về loạt bài “Đâu là bản chất đích thực của con người ?”

  1. Anh Hưng đã nghiên cứu về Duy thức chưa ? Duy thức được coi là Tâm lý học Phật giáo đó. Duy thức có một chút tương thích (một chút thôi) với Phân tâm học của S. Freud, nhưng Duy thức giải thích được nhiều điều mà Phân tâm học bó tay.
    Tôi xin giới thiệu anh tới http://www.thuvienhoasen.org để lúc nào rỗi rãi anh nên ghé qua.
    Theo tôi có sự tương thích giữa Phật giáo và Vật lý lượng tử về vấn đề bản thể luận và nhận thức luận. Nếu có sự khác nhau thì chỉ là cách tiếp cận: Phật giáo tiếp cận theo đường định tính, Vật lý lượng tử tiếp cận cả định tính lẫn định lượng (sử dụng phương trình, biểu thức toán học…). Thời Đức Phật tại thế chưa có các phương trình nên Đức Phật đành phải dùng lời lẽ thông thường để giảng giải chân lý mà ngài đã giác ngộ, điều này là rất khó khăn đối với chính Đức Phật. Do đó phải sinh ra nhiều thứ kinh kệ là như vậy (thiên kinh vạn quyển). Bản thân Đức Phật cũng chỉ tập trung vào việc giác ngộ cho chúng sinh để giúp họ thoát khổ, phá vô minh nơi con người (mới thế thôi mà đã thiên kinh vạn quyển rồi), còn những vấn đề khác như vũ trụ luận, bản thể luận…Đức Phật cũng có đề cập đến trong một số kinh như Hoa Nghiêm…Nhưng những kinh này cực khó tiếp cận (chỉ dành cho các vị Bồ Tát) với người thường.
    Chân lý như mặt trăng, kinh kệ chỉ là “ngón tay chỉ mặt trăng” do đó chỉ là công cụ, phương tiện giúp con người nhìn thấy mặt trăng chân lý thôi. Khi đã giác ngộ rồi (tức khi đã nhận ra chân lý tối hậu – nhất nguyên) thì người ta không cần đến các kinh kệ nữa (thế giới nhị nguyên giả tạm). Đấy là lí do mà Đức Phật nói đại ý: Trong bốn mươi năm thuyết Pháp, ngài không nói lời nào.

    Tuy nhiên Phật giáo có một phương pháp đăc sắc mà không một tôn giáo nào có được đó là “Thiền quán”- trực tiếp cảm nhận chân lý tối hậu.

    Vài dòng trao đổi sơ lược với anh.

    Thích

  2. Có người kể: Năm 1982, khi tôi mới sang Mỹ, có một thanh niên chất vấn tôi như sau: «Thưa Thày, con sang Mỹ này hết sức là thành công, trên phương diện vật chất, nhưng hết sức chán đời, nhiều khi còn muốn tự tử, vì thấy cuộc sống rất là vô nghĩa. Vậy xin hỏi thày: Sống để làm gì?»

    Tôi trả lời: «Tôi sẽ lấy chữ LÀM, để trả lời Anh.

    1. Vì con người có Xác, nên trước hết phải LÀM ĂN.

    2. Vì con người có Hồn, nên phải LÀM NGƯỜI.

    3. Sau hết vì con người có Thần, nên phải LÀM THẦN THÁNH.»

    Đã thích bởi 1 người

  3. Pingback: Tính dừng Alan Turning và chai Coca 220k - Đẹp Drama

  4. Kính chào bác Phạm Việt Hưng!
    Loạt bài của bác bàn về Bản chất đích thực của con người tôi đã đọc với nội dung rất phong phú nên không biết tôi đã đọc được thấu đáo chưa, bài viết này của bác La Thiếu Bình cũng rất hay nói sâu hơn bàn về bản chất con người của PG. Tôi là học trò của khoa học Nhân loại học do bậc thầy Rudolf Steiner phát triển và chủ đề này bàn về bản chất con người nên tôi có mấy ý kiến bổ sung thêm theo quan điểm Nhân học của triết gia Steiner
    Tôi cũng là người chơi cờ vua và cũng biết lập trình cùng hiểu dữ liệu ví dụ của bác về vua cờ Kasparov với máy tính Deep Blue khá thú vị, tôi cũng thường đánh cờ thua chương trình máy rất nhiều từ những trải nghiệm này tôi nhận định chương trình cờ vua đã sử dụng các loại dữ liệu do chính con người tạo ra trong thời gian rất dài từ các khai cuộc, chiến lược và chiến thuật tối ưu giống như câu chuyện một người không biết chơi cờ chơi một lúc với 2 đại kiện tướng lại hòa. Trong chương trình Deep Blue có các mô hình toán duyệt theo chiều sâu cao cấp và cài vào các đối sách đối phó với riêng vua cờ Kasparov dựa trên các nghiên cứu đặc biệt về Kasparov. Máy tính có một lợi thế là nó không có cảm tính nên trình độ của nó lúc nào cũng như thế khác xa con người, lúc nào mệt mỏi khả năng phân tích sẽ suy giảm đáng kể nhưng khi chính mình đã quá quen với một công việc bản thân mình cũng không nhận ra sự suy giảm khả năng phân tích của mình. Tức là con người có rất nhiều điểm yếu để người ta khai thác và dành chiến thắng. Nếu chương trình Deep Blue cũng dành chiến thắng với Bobby Fischer, Hikaru Nakamura,… có phong cách chơi đa dạng khác nhau tại thời điểm đó mới chứng tỏ AI của IBM mạnh mẽ như đã truyền thông. Máy tính có điểm yếu khác là khi Kasparov phát hiện ra các sai lầm của mình và điều chỉnh và phát hiện ra cách thắng máy tính thì đánh cả 100 ván Kasparov vẫn thắng, ông có thể chỉ chiến lược cho một người đại kiện tướng khác cách đánh cũng sẽ đảm bảo thắng cả 100 ván vì máy tính không thể thay đổi và tự học được. Chính vì vậy trong cuộc đua này IBM khi đã đạt được mục đích họ không thể mạo hiểm thêm nữa và dừng lại. Mọi người đều nghĩ AI tiến triển rất nhanh với tốc độ tính toán nhanh hơn nhưng điều này không đúng, có nhiều thứ đòi hỏi thuật toán mới đặc biệt dù tăng tốc độ tính toán với thuật toán cũ cũng vẫn không giải quyết được trừ khi thay đổi thuật toán. Tôi trình bày những điều này để chứng tỏ lại là khả năng của con người là vô hạn theo quan điểm nhân học còn AI chỉ là có hạn kể cả với trí tuệ tính toán khi người ta không nạp thêm tri thức cho máy tính, máy tính không có cơ hội biết thêm tri thức mới nào nữa.
    Tuy nhiên chúng ta đang bàn về Bản chất con người, tôi cũng đi tìm hiểu về Duy biểu học của PG và đồng ý với bác La Thiếu Bình ở một số quan điểm như tính không của trí tuệ bát nhã Không đến không đi, tương tức tương nhập, một trong tất cả và tất cả trong một. Bản chất của con người có phải là vạn pháp quy tâm? Tôi là học trò của Nhân loại học tôi muốn bổ sung thêm nhận định về bản chất con người theo quan điểm của Nhân loại học, tuy nhiên bản chất con người lại là một sự phân chia có thể được thấy qua thơ Goethe:
    Hai linh hồn than ôi nằm trong lồng ngực tôi
    Và mỗi người tách ra đẩy lùi anh trai nó
    Một có tham vọng mạnh mẽ bám tình yêu
    Một bám thế giới trong vòng tay siết chặt
    Và suy tư trỗi dậy nơi góc tối tâm hồn
    Nơi trên cao bất tận không gian tổ tiên ở đó.
    Trong Duy thức học của PG bàn về 8 thức trong đó thức thứ 8 A lạt gia thức hay Tàng thức có tính chất là thường chuyển và thường hằng tức là thường thay đổi và vĩnh hằng nơi tàng trữ các hạt giống tâm hồn nằm sâu trong tiềm thức lẫn vô thức. Dù bản thể có chết đi thì thức thứ 8 vẫn tồn tại và tái sinh, bản chất tồn tại của Tàng thức cũng giống như Linh hồn nó chứa đựng vĩnh cửu mọi cảm thức của con người.
    Tâm là đất gieo hạt
    Mọi hạt giống chứa đầy
    Tâm địa cũng chính là
    Toàn thể hạt giống ấy
    Hạt giống có nhiều loại
    Sinh tử và Niết bàn
    Mê ngộ và khổ vui
    Danh xưng và tướng trạng
    Tuy nhiên PG đề cập đến thức thứ 7 là Mạc na thức hay bản ngã cái tôi luôn bám vào Thức thứ 8 để bộc lộ ra cái tôi cụ thể giả tạm gọi là cái tôi hay nhiều tên khác như Vọng thức hoặc giống như tâm lý học của Freud gọi đây là Vô thức.
    Hạt giống của vô minh
    Của triền sử ái nhiễm
    Quấy động thành vọng thức
    Khi danh sắc hiện hành

    Nương vào A-lại-gia
    Phát hiện thức Mạt-na
    Tác dụng là tư lượng
    Níu lấy tàng làm ngã

    Thức thứ 6 là Ý thức hay Nhận thức đóng vai trò về Nhận thức trong thực tại và nó là kẻ gieo trồng Hạt giống từ thức thứ 8 A lạt gia với sự bám vào của Nấm hay kí sinh là Mạc na thức-cái tôi Thức thứ 7

    Nương vào ý làm căn
    Pháp trần làm đối tượng
    Ý thức được phát sinh
    Phạm vi nhận thức rộng

    Là gốc của thân khẩu
    Có thẩm mà không hằng
    Tạo tác nghiệp dần mãn
    Đóng vai kẻ gieo trồng

    Quan điểm của Goethe và PG là rất giống nhau khi cùng đề cập đến đối tượng gốc rễ của con người là Linh hồn tuy nhiên cách diễn giải khác nhau và cũng sinh ra các đường lối khác nhau. Thức thứ 7 và 8 của PG giống bức tranh linh hồn của Goethe có hai linh hồn đối lập là linh hồn thần tính giữ tình yêu và linh hồn vật chất bám chặt thế giới vật chất đảm bảo sự tồn tại của nó. Quan điểm của Goethe là một quan điểm biện chứng hai mặt của một đối tượng.
    Nhân loại học là khoa học do Rudolf Steiner phát triển kế thừa thế giới quan triết học Hiện tượng học lãng mạn của Goethe về thế giới. Nhân loại học giải thích bản chất bên trong Linh hồn luôn tồn tại hai đối cực là vì bản chất của con người tồn tại lại có sự phân chia 4 lần vào 4 cơ thể là Cơ thể vật lý, Cơ thể Ether, Cơ thể thiên văn và Linh hồn- bản ngã đến từ 4 thế giới tương ứng. Nhân loại học giải thích thế giới khác quan điểm của PG dù có nền móng khá giống nhau về điểm xuất phát là về thế giới Linh hồn, thế giới chúng ta xuất hiện là trung giới nơi 4 thế giới gặp nhau và con người tồn tại trong cả 4 thế giới với 4 cơ thể ở trên và biểu hiện ra của nó là một sự chia cắt đối lập tranh chấp giữa bên trong với bên ngoài như vậy. Tại sao bậc thầy phổ quát như Henrry Poincare luôn tin sự tồn tại của vật chất Ete là vì Ete đại diện cho thời gian hay phản vật chất và nó gắn chặt với vật chất suy nghĩ quy tắc của thế giới vật lý áp cho thế giới Ete như nhìn chiếc gương ngược dù cảm thấy nhưng không thể chứng minh. Có thể cảm nhận trực giác được thế giới của Ete và có sự tồn tại của Ete cũng như thế giới thiên văn vũ trụ hay chính bản thân thế giới linh hồn. Do Linh hồn thuộc về thế giới Linh hồn nhưng để khám phá thế giới trung giới nó ắt phải hiểu về vật chất phản vật chất và về vũ trụ vì vậy mới sinh ra cái tôi để hiện hữu. Một mặt linh hồn tự cảm nhận mình thuộc về cõi linh hồn một mặt linh hồn cảm nhận mình tồn tại hiện hữu qua 3 giới còn lại. Con người với bản chất bị chia cắt nhưng bằng suy nghĩ(Ý thức) của mình nó vượt qua được sự chia cắt với trực quan siêu nhạy qua sự quan sát đặc biệt cũng giống phương pháp thiền quán của PG. Linh hồn phải quay lại thế giới trung giới cũng giống như thuyết luân hồi của PG là để gột giửa lại mình để tu lại mãi mãi như vậy

    Có thể nói quan điểm của Nhân loại học là một khoa học độc lập nghiên cứu về bản chất con người không chỉ theo con đường trực giác nhìn vào bên trong như PG mà có thể tiếp cận tri thức theo con đường riêng là kết nối trực tiếp đến hiện tượng bên trong với bên ngoài của thế giới để thế giới và linh hồn tự bộc lộ chân tính cùng sự hiện hữu. Một mặt Nhân loại học vẫn tiếp thu và sàng lọc tri thức về khoa học quan sát trong thế giới vật chất một mặt quan sát trong thế giới trực giác để đưa ra tri thức mới với mục tiêu nhân văn tự do và đạo đức của mình. Con người có bản chất tự nhận thức được mọi thứ không giới hạn và nó cũng tồn tại trong mọi thứ khi nhận thức bên trong tăng lên nó sẽ đạt dần sự tự do cho chính nó thoát khỏi sinh tử luân hồi để tới niết bàn.

    Thích

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s