The 27th December 2022 will be the 200th birthday anniversary of Louis Pasteur, the father of modern medicine, the great benefactor of mankind. Now is the best time to remember Pasteur and his great legacies, which are most fully preserved at the Institut Pasteur in Paris, and here is also one of the most effective successors to Pasteur’s legacy…
Ngày 27/12/2022 sẽ là lễ kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Louis Pasteur, cha đẻ của Y học hiện đại, vị đại ân nhân của nhân loại. Nay là lúc thích hợp nhất để tưởng nhớ đến Pasteur cùng những di sản vĩ đại do ông để lại. Di sản đó được lưu giữ đầy đủ nhất tại Viện Pasteur Paris, và đây cũng là một trong những tổ chức kế tục di sản của Pasteur hiệu quả nhất …
Pasteur mất ngày 28/09/1895 sau một cơn đột quỵ. Nhà nước Pháp quyết định tổ chức quốc tang cho ông. Theo truyền thống, thi hài ông lẽ ra phải được chôn cất trong Điện Panthéon, nơi chôn cất danh nhân của nước Pháp, nhưng đã được chôn cất trong hầm đại thánh đường của Nhà Thờ Đức Bà ở Paris (Notre Dame de Paris). Năm sau được chuyển về Viện Pasteur ở Paris. Năm 1910, bà Marie vợ ông mất, thi hải của bà cũng được chôn cất trong Viện Pasteur, gần mộ chồng.
Tại sao thi hài Pasteur không được chôn cất trong Điện Panthéon?
Câu trả lời nằm trong câu chuyện sau đây[1]:
Ẩn sau Ga Xe lửa Montparnasse là tòa nhà bằng gạch và đá trang nhã của Viện Pasteur. Kể từ khi thành lập vào năm 1887, Viện Pasteur đã đi đầu trong cuộc chiến chống lại bệnh truyền nhiễm. Viện có nhiều bộ phận nghiên cứu, từ khoa học thần kinh đến gene di truyền và dịch tễ học, … Tiếp tục truyền thống đã có từ thời Pasteur, Viện đã đạt được những bước đột phá lớn trong thế kỷ 20 và hiện nay, kiểm soát và chữa khỏi nhiều bệnh tật nguy hiểm như bệnh bạch hầu, cúm, sốt vàng da, bệnh dịch hạch, bệnh bại liệt, uốn ván và bệnh lao … Những thành tựu đó đã làm rạng danh Viện, trong đó có 10 nhà khoa học đoạt Giải Nobel:
- Charles Louis Alphonse Laveran, 1907
- Ilya Metchnikoff, 1908
- Jules Bordet: 1919
- Charles Jules Henri Nicolle, 1928
- Daniel Bovet, 1957
- Jacques Monod, 1965
- François Jacob, 1965
- André Lwoff, 1965
- Françoise Barré-Sinoussi, 2008
- Luc Montagnier, 2008
Trong đó, Françoise Barré-Sinoussi là người đầu tiên phân lập được virus HIV vào năm 1983. Mê cung các phòng thí nghiệm tiên tiến nằm cạnh một căn hộ kiểu Louis XIII, nơi Louis Pasteur và vợ đã sống trong 7 năm cuối đời. Bảo tàng chuyển thành dinh thự này trưng bày hơn 1.000 cổ vật khoa học, bao gồm kính hiển vi, tinh thể và một chiếc bình cổ cong thiên nga huyền thoại vẫn còn ở đó.
Ảnh chụp năm 1920 bên trong một phòng giảng dạy trong Viện Pasteur, Paris
Sự tưởng nhớ tuyệt vời nhất dành cho nhà khoa học lừng lẫy được đặt trong một căn hầm bên dưới của Viện. Hài cốt của Pasteur không được an táng trong Điện Panthéon, nơi chôn cất các danh nhân nổi tiếng của nước Pháp, mà nằm trong một hầm mộ riêng bên dưới căn buồng cũ của ông trong Viện, nơi ông sống những ngày cuối đời. Bà Marie vợ ông đã từ chối kế hoạch của chính phủ định chôn cất ông trong Điện Panthéon, bà khăng khăng nói rằng nơi an nghỉ của ông phải ở trong Viện yêu quý của ông. Hầm mộ ban đầu là một căn hầm được sử dụng làm nơi lưu trữ các thiết bị y tế cho đến khi con trai của Pasteur ủy quyền cho một số thợ thủ công giỏi nhất của thời đại Tân nghệ thuật xây dựng ngôi mộ tuyệt đẹp này. Kiến trúc sư Charles Girault đã phác thảo kế hoạch cho một hầm được mô phỏng theo ngôi mộ nạm ngọc của Galla Placidia tại Ravenna, nơi Pasteur đã đến thăm trong chuyến du lịch ở Ý. Họa sĩ Luc-Olivier Merson đã phủ các bức tường bằng các hình ảnh, đặt nền móng cho các bức tranh khảm. Đến lượt mình, các bức tranh ghép được thực hiện bởi nghệ nhân lừng danh Auguste Guilbert-Martin, người, giống như Pasteur, đã từng được đào tạo như một nhà hóa học. Kết quả của sự hợp tác này là một kiệt tác của thiết kế tân Byzantine: các bức tranh khảm vàng rạng rỡ trang trí cho trần và tường của hầm mộ, tôn vinh các khám phá mang tính bước ngoặt của Pasteur.
Xuyên suốt lăng mộ, các bức tranh khảm mô tả những dải tua hoa nở rộ của hoa bia và nho, ám chỉ những nghiên cứu ban đầu của Pasteur về quá trình lên men. Trong thời gian ông làm giáo sư hóa học và trưởng khoa Khoa học tại Đại học Lille, cha của một sinh viên đã xin lời khuyên của ông về việc rượu bị chua tại một nhà máy chưng cất địa phương. Pasteur đã chỉ ra rằng, không phải rượu bị chua do bị phân hủy như người ta tưởng trước đây, mà là do nấm men sống tạo ra rượu từ đường, từ đó mà nẩy sinh ra lý thuyết mầm bệnh của sự lên men. Những nghiên cứu này đã dẫn đến một phát hiện đáng ngạc nhiên rằng để nấm men tiếp xúc với không khí sẽ làm ngừng quá trình lên men, một quá trình ngày nay được gọi là Hiệu ứng Pasteur (Pasteur Effect). Pasteur giải thích thêm rằng các vi sinh vật cụ thể tạo ra quá trình lên men trong điều kiện yếm khí. Ông đã sẵn sàng áp dụng nghiên cứu này cho ngành công nghiệp rượu và bia của Pháp, cứu ngành công nghiệp này khỏi nguy cơ sụp đổ do các vấn đề sản xuất và ô nhiễm trong quá trình xuất khẩu. Theo yêu cầu của Hoàng đế Napoléon III, Pasteur đã nghiên cứu thêm về cách ngăn chặn rượu bị hư hỏng. Ông phát hiện ra rằng bằng cách đun nóng rượu đến 50–60 ° C (120–140 ° F), ông có thể tiêu diệt bất kỳ vi khuẩn nào có thể gây ô nhiễm, một quy trình hiện được gọi là quá trình thanh trùng (pasteurization).
Viện Pasteur Saigon, được thành lập năm 1891 (ảnh chụp giai đoạn 1920-1929)
Trong số những hình ảnh về dây leo có những hình ảnh cây dâu, lấm tấm những con tằm, con bướm đêm. Sau khi hỗ trợ những người làm rượu và nấu bia của Pháp, những người nông dân trồng dâu nuôi tằm của quốc gia này đã tìm kiếm sự giúp đỡ của Pasteur. Từ năm 1853, một căn bệnh bí ẩn đã tấn công các vườn ươm tằm của Pháp, gây ra tổn thất lớn. Mặc dù ban đầu không biết gì về tằm, Pasteur đã trở thành một chuyên gia trong việc nuôi cấy chúng, phát triển một hệ thống ngăn ngừa dịch bệnh lây lan và bảo vệ những quả trứng tằm khỏe mạnh khỏi bị ô nhiễm. Trong vài năm, ông đã cứu ngành tơ lụa bằng một phương pháp vẫn được sử dụng ngày nay. Nghiên cứu về tằm là lần đầu tiên Pasteur tiếp xúc với cuộc chiến bí mật chống lại các bệnh truyền nhiễm mà sau này trở thành trọng tâm nghiên cứu của ông.
Một bức tranh khảm về gà màu trắng ngà và xanh lục ở một vùng nông thôn tươi tốt ám chỉ đến khám phá quan trọng đầu tiên của Pasteur trong nghiên cứu về tiêm chủng vaccine. Năm 1879, Pasteur bắt đầu điều tra về căn bệnh được gọi là bệnh dịch tả gà, hay bệnh tụ huyết trùng ở gia cầm. Trong khi phân lập và nuôi cấy vi khuẩn bệnh tả gà trong môi trường nuôi cấy, một trong các mẫu vi khuẩn đã bị hỏng và không thể gây bệnh cho một số gà mà ông đã cố tình làm cho chúng bị lây nhiễm. Pasteur nhận thấy những con gà vẫn khỏe mạnh này không bị lây nhiễm ngay cả khi cấy vi khuẩn có độc lực mạnh vào chúng. Pasteur khám phá ra rằng khi vi khuẩn dịch tả gà được nuôi cấy mất khả năng gây bệnh, vi khuẩn suy yếu này sẽ tạo ra ở gà khả năng miễn nhiễm, tức là khả năng kháng lại vi khuẩn có độc lực mạnh.
Những chú cừu ngoan ngoãn được chăn thả trên đồng cỏ là trọng tâm của bức tranh khảm tiếp theo, thể hiện thành tựu tiếp theo của Pasteur. Một trận dịch bệnh than đã tràn qua Pháp và các khu vực khác của châu Âu, giết chết một số lượng lớn cừu. Pasteur đã tìm cách áp dụng nguyên tắc tiêm phòng bệnh than. Ông đã nuôi cấy trực khuẩn từ máu của những con vật bị nhiễm bệnh và xác định rằng việc phát triển trực khuẩn bệnh than ở 42 ° C khiến chúng không thể tạo ra bào tử. Năm 1881, sau khi thấy Pasteur trình bày phát hiện của mình, bác sĩ thú y Hippolyte Rossignol đã thách thức Pasteur thử nghiệm vaccine của mình. Thử nghiệm liên quan đến 25 động vật trong trang trại, bao gồm cừu, dê và bò. Nhóm được tiêm chủng nhận được vaccine có độc lực thấp, trong khi nhóm đối chứng không nhận được gì. Hai tuần sau khi được tiêm chủng, cả cừu được tiêm phòng và cừu đối chứng đều tiếp xúc với một dòng vi khuẩn bệnh than độc lực mạnh. Trong vòng vài ngày, tất cả những con cừu đối chứng đều chết, trong khi tất cả những con được tiêm phòng đều sống sót. Thí nghiệm đã thành công mỹ mãn.
Viện Pasteur Đà Lạt
Với thành công của việc tiêm phòng bệnh than, Pasteur đã trở thành nhà tiên phong trong lĩnh vực dùng vaccine để ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm. Ý tưởng về việc dùng vaccine để cung cấp khả năng miễn dịch không phải là mới. Vào cuối những năm 1790, bác sĩ phẫu thuật người Anh Edward Jenner đã nghiên cứu việc chủng ngừa bằng cách sử dụng bệnh đậu bò để tạo miễn dịch chéo đối với bệnh đậu mùa, vốn đã lây lan sang hầu hết các nước châu Âu. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa tiêm phòng bệnh đậu mùa của Jenner với việc tiêm phòng bệnh than hoặc bệnh tả gà của Pasteur là ở chỗ vaccine do Jenner sử dụng là vi khuẩn sẵn có ở bò, còn vaccine do Pasteur sử dụng là vaccine do chính ông tạo ra bằng cách làm suy yếu vi khuẩn vốn có độc lực mạnh. Do đó, Pasteur không cần phải tìm ra một dạng sinh vật gây bệnh nào khác, mà chủ động tạo ra vaccine. Khám phá này đã tạo ra một cuộc cách mạng trong công việc điều trị các bệnh truyền nhiễm. Để cho công bằng, người ta nói rằng Edward Jenner đã phát hiện ra phương pháp vaccine và Pasteur đã phát minh ra vaccine.
Viện Pasteur Nha Trang
Gần chín mươi năm sau khi Jenner chủng ngừa bệnh đậu mùa, Pasteur đã phát triển một loại vaccine nổi tiếng khác, đó là vaccine bệnh dại. Ba bức tranh ghép cuối cùng kể về những nghiên cứu của Pasteur về một trong những bệnh nhiễm trùng chết người: bệnh dại. Bệnh dại là một căn bệnh đáng sợ và khủng khiếp, được coi như một bản án tử hình đối với bất kỳ ai không may bị con vật dại cắn. Trong bức tranh đầu tiên, một con chó dại sùi bọt mép bị xích vào một chiếc cọc trong khi hai con chó khác bất lực nhìn con chó này. Trong đoạn thứ hai, một nam thanh niên sợ hãi dùng dây thừng bịt miệng con chó dại, căng mình để tránh vết cắn chết người. Cuối cùng, thỏ bạch tạng vui vẻ nhảy vào một cánh đồng xanh tươi. Chiến thắng bệnh dại là nỗ lực cuối cùng của Pasteur. Pasteur đã sản xuất ra vaccine đầu tiên cho bệnh dại bằng cách nuôi cấy virus trên thỏ. Để làm suy yếu virus, ông đã làm khô tủy sống của những con vật bị nhiễm bệnh cho đến khi chế phẩm gần như không còn độc lực. Điều này đã mở đường cho sự phát triển của phương pháp vaccine: Từ nay, các nhà khoa học có thể chủ động chế tạo ra vaccine, thay vì phải tìm một loại vaccine sẵn có như trường hợp Edward Jenner sử dụng vi khuẩn bệnh đậu bò.
Pasteur đã thử nghiệm thành công vaccine bệnh dại do ông chế tạo trên 50 con chó trước khi thử nghiệm đầu tiên trên người. Năm 1885, Joseph Meister, chín tuổi, được đưa đến Pasteur sau khi bị một con chó dại cắn. Cha mẹ của Meister cầu xin ông cứu con trai của họ; tuy nhiên, Pasteur không phải là một bác sĩ được cấp phép chữa bệnh và có thể bị truy tố vì điều trị cho cậu bé. Với việc cậu bé vô tội đang phải đối mặt với cái chết gần như chắc chắn, Pasteur đã quyết định tiếp tục điều trị. Cậu bé Meister đã đi vào lịch sử y khoa, trở thành bệnh nhân đầu tiên của Louis Pasteur được điều trị và cứu sống bằng vaccine phòng bệnh dại. Vaccine của Pasteur được ca ngợi là thành công và mọi nạn nhân bị chó dại cắn từ khắp nơi trên thế giới đổ xô đến phòng thí nghiệm của ông để được cứu khỏi cái chết thảm khốc.
Thành công của phương pháp điều trị đã đặt nền móng không chỉ cho việc sản xuất nhiều loại vaccine khác mà còn cho chính Viện Pasteur. Vào năm 1887, các nhà hảo tâm bắt đầu gây quỹ cho việc thành lập một viện nghiên cứu “điều trị bệnh dại theo phương pháp do Ngài Pasteur phát triển” và “nghiên cứu các bệnh lây nhiễm do virus”. Ngày nay, có 32 Viện Pasteur tại 29 quốc gia trên thế giới[2].
Viện Pasteur Hà Nội (nay là Viện vệ sinh dịch tễ trung ương)
Câu chuyện về Joseph Meister và vaccine phòng bệnh dại có một phần tái bút thú vị gắn trực tiếp với hầm mộ. Năm 1940, năm mươi lăm năm sau khi được cứu sống, Meister là người gác cổng tại Viện Pasteur. Truyền thuyết kể rằng khi quân Đức xâm lược Paris vào năm đó, những người lính đến viện yêu cầu được vào lăng mộ của Pasteur. Thay vì giao nộp nơi an nghỉ của vị ân nhân của mình cho Đức Quốc xã, Meister lúc ấy 64 tuổi đã tự sát. Câu chuyện này, mặc dù có hư cấu, nhưng đã nhấn mạnh đến di sản của Louis Pasteur và sự vĩ đại của nơi an nghỉ của ông. Thật phù hợp khi lăng mộ của Pasteur là nơi những người kế vị ông thực hiện công việc vĩ đại của ông và là nơi sinh viên từ khắp nơi trên thế giới có thể được nhắc nhở về sự cống hiến không mệt mỏi của ông đối với khoa học vì lợi ích của nhân loại.
Trái tim đa cảm của Pasteur
Pasteur không chỉ yêu nhân loại chung chung. Ông yêu cả những con người cụ thể. Phải là người rất yêu trẻ em mới có thể cất lên lời sau đây: “Khi tới cạnh một em bé, em gây ra ở tôi hai tình cảm: sự dịu dàng thương mến vì những gì em đang có, sự nể trọng vì những gì em sẽ trở thành trong tương lai”. Ông thương những em bé bị chó dại cắn, ông thương những chủ trại chăn nuôi gia súc khốn khổ với bệnh dịch của súc vật. Ông quyết tâm cứu họ, và đã cứu được.
Nhưng sẽ là thiếu sót lớn khi ca ngợi tình yêu nhân loại của ông mà quên không nhắc đến tình yêu của ông đối với gia đình. Ông đau đớn vì những đứa con bị mất đến nỗi quyết tâm tìm cách chữa trị những bệnh truyền nhiễm. Với người vợ tận tụy của ông, bà Marie, ông suốt đời yêu thương và trung thành. Bà không chỉ là người nội trợ chu đáo, mà thực sự là một người bạn đời của ông theo nghĩa cao quý nhất. Bà vừa là người bạn, vừa là người thư ký giúp việc cho ông trong công việc nghiên cứu viết lách. Lúc ông lên cơn đột quỵ để rời khỏi thế gian, một tay ông nắm tay vợ, tay kia cầm một chuỗi tràng hạt (Ông đọc kinh lần tràng hạt đều đặn như bất cứ một con chiên ngoan đạo nào).
[1] Viết dựa theo bài báo: “Tales from the crypt: the mosaic symbolism of Louis Pasteur’s tomb”, Abigail Cline, Journal of Medical Humanities > https://hekint.org/2018/03/06/tales-crypt-mosaic-symbolism-louis-pasteurs-tomb/
[2] Theo Wikipedia, hiện có 34 Viện Pasteur tại 27 quốc gia, trong đó riêng Việt Nam có 4 Viện ở Saigon, Nha Trang, Đà Lạt, Hà Nội https://en.wikipedia.org/wiki/Pasteur_Institute