NTM 49 | Cuộc chiến giảng dạy Thuyết tiến hóa

Vì Sao Nhiều Nước NGỪNG DẠY Thuyết Tiến Hóa?

| Thuyết Tiến Hóa T12-P1

Nguồn: https://www.youtube.com/@NhanThucMoi/videos

One thought on “NTM 49 | Cuộc chiến giảng dạy Thuyết tiến hóa

  1. Tác phẩm Những Suy Niệm Siêu Hình Học (Méditations Métaphysiques) của Triết Gia Pháp René Descartes (1596–1650) cha đẻ của Chủ Nghĩa Duy Lý (Rationalism) trong Triết Học Tây phương (bản dịch của Trần Thái Đỉnh Tiến Sĩ Triết Học (Pháp) nguyên Giáo sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn) trình bày quá trình suy ngẫm của Triết Gia để tìm kiếm sự thật tuyệt đối và xây dựng một hệ thống tri thức vững chắc dựa trên lý trí, bắt đầu với phương pháp hoài nghi triệt để, qua đó dẫn đến sự tồn tại của “tôi” (𝐶𝑜𝑔𝑖𝑡𝑜), sự tồn tại của Thượng Đế và cuối cùng là sự tồn tại của thế giới vật chất bên ngoài. Nội dung chính của tác phẩm như sau.

    • Phương pháp hoài nghi triệt để: Descartes bắt đầu bằng việc nghi ngờ tất cả mọi thứ mà ông từng tin tưởng, kể cả các giác quan và những sự thật toán học, để tìm ra một chân lý không thể nghi ngờ.
    • Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (Cogito, ergo sum): Sau khi nghi ngờ mọi thứ, Réne Descartes đi đến kết luận rằng hành động nghi ngờ chứng tỏ sự tồn tại của bản thân ông như một thực thể tư duy. Đây là điểm khởi đầu không thể bác bỏ cho Triết Học của ông.
    • Sự tồn tại của Thượng đế: Réne Descartes đưa ra các lập luận để chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế, coi Ngài là một thực thể hoàn hảo, toàn năng và là nguồn gốc của mọi ý niệm.
    • Phân biệt TÂM và VẬT: Thông qua Thượng Đế, Réne Descartes phân biệt rõ ràng giữa tâm trí (linh hồn) và cơ thể (vật chất), cho rằng hai thứ này tồn tại độc lập với nhau nhưng có thể tương tác.
    • Chứng minh sự tồn tại của thế giới bên ngoài: Với sự tồn tại của một Thượng đế không lừa dối, Réne Descartes có thể khẳng định rằng thế giới vật chất bên ngoài mà ông nhận thức được là có thật.

    Tây phương SUY NGHĨ NHƯ THẾ NÀO VỀ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC SIÊU HÌNH qua Triết Gia Pháp René Descartes (1596–1650):

    HỌ TÁCH VẤN ĐỀ SIÊU HÌNH QUA MỘT BÊN

    VẤN ĐỀ THỰC TẠI (REALITY) QUA MỘT BÊN,

    LÝ TRÍ (REASON) QUA MỘT BÊN

    nghĩa là SUY NGHĨ RẠCH RÒI giữa các PHẠM VI SUY TƯ chứ không lẫn lộn giữa TINH THẦN = TÂM và LÝ TRÍ = SUY LÝ CỦA TÂM TRÍ nên họ xây dựng được những TIÊU CHUẨN căn bản của Triết Học.

    Nhờ có Triết Gia René Descartes (1596–1650), sau này người Pháp có thêm một Louis Pasteur (1822–1895) làm việc nghiên cứu khoa học RẠCH RÒI RÕ RÀNG ĐÂU RA ĐẤY.

    Đáng tiếc là, trong Triết Học Tây phương, các Triết Gia và Khoa Học Gia về Vật Lý, Toán Học, Hóa Học, Văn Học, Thần Học có một vị trí nhất định trong TỔNG THỂ Triết Học thì Louis Pasteur lại chưa có một vị trí thỏa đáng đúng đắn trong Triết Học và trong vấn đề Nhận Thức Luận (Epistemology) thuộc Triết Học để nhận thức thế giới vũ trụ vạn vật toàn diện và đúng đắn hơn, thỏa đáng hơn và chính xác hơn.

    Triết Học (Philosophy) gồm:

    Ontology (Bản Thể Luận): bàn về Bản Thể (Ontos). Ontology có nguồn gốc từ Triết Học Hy Lạp và La Mã cổ đại và là một nhánh của Siêu Hình Học (Metaphysics), với các Triết Gia Hy Lạp cổ đại như Aristotle là những người đầu tiên hệ thống hóa các tri thức này. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Ontos” (Tồn Tại) và “Logos” (Học Thuyết, Lý Tính), do đó có nghĩa là “Học Thuyết / Lý Tính về Sự Tồn Tại“.

    Cosmology (Vũ Trụ Luận): bàn về Vũ Trụ.

    Philosophy of Human Life (Nhân Sinh Luận ): bàn về đời sống con người và xã hội.

    Epistemology (Nhận Thức Luận, đôi khi dịch là Tri Thức Luận): bàn về giá trị của nhận thức và giá trị của tri thức.

    Methodology (Phương Pháp Luận): bàn về phương pháp tư duy và phương pháp nghiên cứu Triết Học và các Khoa Học.

    Trong đó, phần cốt lõi là Bản Thể Luận (Ontology) bàn về NGUỒN GỐC VŨ TRỤ THẾ GIỚI VẠN VẬT VÀ CON NGƯỜI.

    HỌC VẤN (EDUCATION) của con người bắt đầu bằng sự SUY TƯ (THINKING) tức là TƯ DUY hoặc PHẢN TỈNH / PHẢN TƯ (REFLECTION) và đó cũng là NỀN TẢNG của mọi loại KIẾN THỨC (KNOWLEDGE).

    Khi con người bắt đầu sự SUY TƯ, nghĩa là có PHẢN TỈNH / PHẢN TƯ tức là biết đặt nghi vấn (interrgation) với những câu hỏi (question) bằng HOW (thế nào), WHAT (cái gì), WHERE (ở đâu), WHEN (khi nào), và WHY (tại sao) và rồi tìm câu trả lời thỏa đáng thì phát sinh ra TƯ TƯỞNG (THOUGHT) và mọi KHOA HỌC (SCIENCE).

    Nhưng NỀN TẢNG (FOUNDATION) của mọi SUY TƯ chính là Lương Tâm, Lương Tri, và Lương Năng.

    PATHOS (XÚC ĐỘNG hoặc CẢM ĐỘNG THA THIẾT), ETHOS (ĐẠO ĐỨC) và LOGOS (LÝ TÍNH NỀN TẢNG) là hình tam giác trong Triết Học Tây phương đều để nói đến NỀN TẢNG của mọi TƯ TƯỞNG, HỌC VẤN hoặc GIÁO DỤC (EDUCATION) và KHOA HỌC (SCIENCE).

    ETHOS (ĐẠO ĐỨC) chính là 良心 Lương Tâm (Conscience) hay ĐỨC DỤC (MORALITY) tức xu hướng GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC (MORAL EDUCATION), PATHOS (XÚC ĐỘNG, CẢM ĐỘNG THA THIẾT) chính là 良知 Lương Tri (Common Sense, Good Sense) hay TRÍ DỤC (INTELLIGENCE) trước CHÂN LÝ (TRUTH: SỰ THẬT, LẼ THẬT) tức xu hướng GIÁO DỤC TRÍ TUỆ (INTELLIGENT EDUCATION), và LOGOS (LÝ TÍNH NỀN TẢNG) chính là 良能 Lương Năng (Aptitude: tư chất, khả năng bẩm sinh, năng khiếu bẩm sinh; Capacity: năng lực) trên cơ sở THỂ DỤC (PHYSICAL EXERCISES) tức xu hướng GIÁO DỤC THỂ CHẤT (PHYSICAL EDUCATION).

    Giáo Dục hay Học Vấn và Khoa Học của Tây phương bắt đầu từ NỀN TẢNG Triết Lý và Triết Học (Philosophy) và các TƯ TƯỞNG KHOA HỌC (SCIENTIFIC THOUGHT) ở Hy Lạp cổ đại,  là các YẾU TỐ TINH HOA (ESSENCE) và các GIÁ TRỊ CỐT LÕI (CORE-VALUES).

    Khoa Học là một trong những HOẠT ĐỘNG TINH THẦN (Spiritual Activities) của con người vốn có GIÁ TRỊ SÁNG TẠO (CREATIVE VALUES) làm phát sinh các TƯ TƯỞNG KHOA HỌC để có thể sản sinh ra NỀN KHOA HỌC CHÂN CHÍNH (GENUINE SCIENCE FOUNDATION) trên “hành trình tri thức” và “hành trình tư tưởng” về Khoa Học và Giáo Dục của con người.

    Triết Học Tây phương, khởi thủy là sự phản tỉnh / phản tư (reflection) của con người trước các hiện tượng tự nhiên và vạn vật trong vũ trụ thiên địa. Thuở ban đầu, khoa học (science) chưa hình thành các chuyên ngành khoa học (scientific disciplines), các khoa học tự nhiên (natural sciences) như Vật Lý Học (Physics), Hóa Học (Chemistry), Toán Học (Mathematics) được gọi là TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN (NATURAL PHILOSOPHY), tương tự, các khoa học xã hội (social sciences) như Xã Hội Học (Sociology), Sử Học (History), Văn Học (Literature Studies), Chính Trị Học (Politics), Kinh Tế Học (Economics), Luật Học (Jurisprudence),  v.v. được gọi là TRIẾT HỌC XÃ HỘI (SOCIAL PHILOSOPHY). Do vậy Triết Học được gọi là KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC.

    Triết Học (Philosophy) chỉ được xem là một Triết Học phải hội đủ các bộ phận bao gồm: Bản Thể Học / Bản Thể Luận (Ontology) bàn về vũ trụ vạn vật thiên địa từ khởi thủy, Phương Pháp Luận (Methodology) bàn về phương pháp nghiên cứu (method of research), Nhận Thức Luận hay Tri Thức Luận (Epistemology) xem xét và đánh giá lại giá trị các nhận thức và kiến thức để điều chỉnh lại vấn đề nhận thức, và Đạo Đức Học hay Luân Lý Học (Ethics) bàn về các giá trị cốt lõi về tinh thần của con người liên quan đến đạo đức (morality). Như vậy, Nhận Thức Luận hay Tri Thức Luận (Epistemology) và Đạo Đức Học hay Luân Lý Học (Ethics) là hai phần tối quan trọng trong Triết Học, một nhà khoa học chân chính mới được xem là một khoa học gia hoạt động vì việc theo đuổi Chân Lý (The Truth: Sự Thật, Lẽ Thật) và phải là một người 正直 CHÍNH TRỰC (RIGHTEOUSNESS) – 正 CHÍNH: NGAY NGẮN ngược lại là 邪 TÀ: LỆCH LẠC và 直 TRỰC: THẲNG, 正直 CHÍNH TRỰC: NGAY THẲNG và YÊU LẼ THẬT, YÊU CHÂN LÝ và không bẻ cong Chân Lý vì DANH LỢI (好名貪利 Hiếu Danh Tham Lợi: Háo Danh Hám Lợi) – ĐẠO ĐỨC (MORALITY) không phải là một đức tánh XA XỈ mà là một căn tính tối thiểu của 智慧 Trí Tuệ (Intelligence): Sự Hiểu Biết, Sự Thông Thái, và cũng là một lựa chọn, Trí Tuệ thật sự chỉ xuất phát từ sự 良善 LƯƠNG THIỆN và 公心 CÔNG TÂM tức lòng dạ luôn hướng đến sự CÔNG BẰNG (JUSTICE) cho nên tiếng Việt mới nói CÔNG BẰNG CHÍNH TRỰC.

    Đông phương bao gồm vùng CẬN ĐÔNG tức khu vực Ai Cập, Do Thái đến vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) là vùng đất lịch sử nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates, ngày nay chủ yếu thuộc lãnh thổ Iraq kéo dài đến Ấn Độ và Trung Á, Đông Á bao gồm Trung Hoa và khu vực Đông Nam Á với Đông Bắc Á (bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan) lại không tách bạch rạch ròi giữa TINH THẦN (SPIRIT) = TÂM (MIND) và LÝ TRÍ (REASON) = SUY LÝ (REASONING) nên chỉ có Đạo Học (The Study of Dao, Leaning of Tao) và Tôn Giáo (Religion) với những nhận thức siêu hình và Huyền Học (Mysticism). Nhiều Tri Thức Khoa Học ngày nay có nguồn gốc từ TRI THỨC CỔ XƯA thuộc Tôn Giáo và những vùng đất có truyền thống Tâm Linh Tôn Giáo, ví dụ: Penicillin là thuốc phát xuất từ Ai Cập họ đắp bánh mì mốc lên vết thương. Sau này mấy ông Tây phương xem xét lại nên đúng chất nguyên thủy không có cái gì của các ông, ngành Phẫu Thuật học đầu tiên phát xuất từ Lưỡng Hà và Ai Cập. Về Y Thuật chữa bệnh phải nói là thần kỳ, Tây y cũng xuất phát từ đó mà ra. Những ngành như Lịch Pháp, Toán Pháp, Thiên Văn Học, v.v ban đầu xuất phát từ các Tôn Giáo và những khu vực phát triển nông nghiệp có nhu cầu dự báo thời tiết mùa màng cần phải làm Lịch và tính toán thời tiết để phục vụ nông nghiệp và các nghi lễ tế thần.

    Tây phương và nhiều người ngày nay nhận thức lệch lạc cho rằng Khoa Học là Thực Chứng bằng Thực Nghiệm và Tôn Giáo là Đức Tin MÙ QUÁNG. Khoa Học thật ra bắt nguồn từ TRI THỨC CỔ XƯA trong các Tôn Giáo.

    Xin cảm ơn Giáo sư Phạm Việt Hưng và kênh Nhận Thức Mới đã có buổi trò chuyện hữu ích và thú vị.

    Thích

Gửi phản hồi cho creativelyinternet8a3d7f9469 Hủy trả lời