One thought on “NTM 43 | Ngôn ngữ & Ý thức đến từ đâu?”
Khoa Học là hành trình khám phá và tìm tòi tri thức của con người, nhưng Khoa Học phải được phát triển trên nền tảng Giáo Dục có Đạo Đức, mà Đạo Đức là Tính Nhân Văn (Humanitarian / Humane: Tính Nhân Đạo), là sự yêu thương con người.
Không thể có nền Khoa Học Phi Nhân Tính (Inhumane: Tính Vô Nhân Đạo), Thuyết Tiến Hóa (The Theory of Evolution) của Charles Darwin chính là nguồn gốc của Chủ Nghĩa Phân Biệt Chủng Tộc (Racism) của Chủ Nghĩa Quốc Xã (Nationalism) của Đức Quốc Xã (Nazi Germany) do Adolf Hitler dựng lên Lý Thuyết Dân Tộc Thượng Đẳng Aryan tức Thuyết Ưu Sinh (Eugenics) đề cao sự tiến hóa của dân da trắng Âu châu dẫn đến sự diệt chủng dân tộc Do Thái (Israeli) vốn là chủng Á châu xét về mặt Nhân Chủng Học (Anthropology) thời Đệ Nhị Thế Chiến (World War II), Chế Độ Apartheid (Kỳ Thị Chủng Tộc) ở Nam Phi và sự tôn sùng Tính Thượng Đẳng của sắc dân da trắng kỳ thị các dân tộc da màu (Colors) Á Phi và dân da đỏ (người Maya) ở Mỹ châu, sắc tộc thiểu số ở Úc châu, đã có những cuộc thảm sát tàn bạo người da đỏ và các sắc tộc thiểu số do người da trắng thực hiện ở Mỹ châu và Úc châu với các chính sách man rợ và vô nhân đạo nhất của cái gọi là nền văn minh Âu Mỹ.
Trước đây vào thời kỳ Cơn Sốt Vàng ở California (California Gold Rush) tại nước Mỹ vào quãng 1848–1855, số lượng người Trung Hoa di cư ồ ạt vào thời kỳ này, và đến sau Đệ Nhị Thế Chiến (World War II) là sự di dân ồ ạt của các sắc dân Á châu như Nhật Bản, Đại Hàn, Ấn Độ đã dẫn đến trào lưu của cái gọi là Họa Da Vàng tức là sự kỳ thị chủng tộc của dân da trắng với dân Á châu, và cho đến nay sự kỳ thị dân da màu vẫn còn ở Úc, New Zealand, Mỹ, Canada và nhiều nước Âu châu.
Có thời kỳ các nhà hàng và khách sạn ở các bang miền bắc nước Mỹ treo bảng NO COLORS (KHÔNG CÓ NGƯỜI DA MÀU) trước cửa để ngăn cấm các sắc tộc Á Phi bước vào.
Vậy thì sao? Lại có cả những người Á châu cổ súy cho Thuyết Tiến Hóa (?) Khoa Học và Giáo Dục là một trong những nền tảng thúc đẩy sự phát triển và văn minh văn hóa trên địa cầu, Khoa Học để phục vụ đời sống con người với các phát minh mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn, thay vì vậy, lại có những phát minh dẫn đến sự sáng chế các vũ khí khoa học tối tân có tính hủy diệt, đó chính là nguyên nhân mà Albert Einstein từ chối không tham gia vào dự án Manhattan (Manhattan Project) do chính phủ Mỹ tiến hành nhằm chế tạo vũ khí nguyên tử dẫn đến hai trái bom nguyên tử phá hủy hai thành phố Nagasaki và Hiroshima ở Nhật Bản, những Tên Lửa Hành Trình (Cruise Missile) xuyên lục địa bắn từ châu lục này sang châu lục khác, bom Napan (Bom Lửa), Bom Bi được dùng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, v.v. …
“Le science sans conscience n’est que ruine de l’âme.”(“Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ là sự tàn lụi của tâm hồn.”) – Văn sĩ Pháp François Rabelais (1483–1553).
Các Khoa Học Gia Âu Mỹ, vốn có tham vọng cùng cực, luôn tự phụ trí tuệ của con người, luôn tìm cách giải thích mọi sự, nhưng trí tuệ của con người chỉ là tiếng nói vô vọng trong vũ trụ mênh mông, hàng tỉ năm của nền văn minh địa cầu so với vũ trụ chỉ là một cái chớp mắt không hề có ý nghĩa gì …!
“Men go abroad to wonder at the heights of mountains, at the huge waves of the sea, at the long courses of the rivers, at the vast compass of the ocean, at the circular motions of the stars, and they pass by themselves without wondering.” (St. Augustine)
“Người ta thường bàng hoàng ngây ngất trước cảnh quan những rặng núi cao hùng vĩ, những ngọn sóng bao la của biển cả, những dòng sông chảy dài miên man không dứt, những “tấm thảm” đại dương mênh mông, những chu kỳ chuyển động không ngừng của các tinh tú trong vũ trụ, thế mà con người lại bỏ qua chính mình mà không hề tự vấn.” (Thánh Augustine)
Sự ngạo mạn của con người thật là đáng sợ, thứ vũ khí nguy hiểm nhất trong xã hội con người và nhân loại không phải là các loại vũ khí khoa học hiện đại mà chính là trí tuệ của sự vô đạo đức và phi nhân tính. Triết gia Hy Lạp cổ đại Socrates cuối đời bị bức tử phải uống thuốc độc chết trong nhà tù với tội danh LÀM HƯ HỎNG THẾ HỆ THANH NIÊN THÀNH BANG ATHENS (ATHENS LÀ THỦ ĐÔ CỦA HY LẠP ĐẾN NGÀY NAY) chỉ vì Socrates dạy rằng trên hành trình tri thức phải biết ĐẶT CÂU HỎI tức là nhấn mạnh đến TƯ DUY ĐỘC LẬP, một người có nền học vấn và giáo dục căn bản thì TUYỆT ĐỐI KHÔNG NÓI THEO VÀ KHÔNG NÓI LEO, có TƯ DUY ĐỘC LẬP (The Independent Thinking) thì mới có TƯ DUY PHẢN BIỆN (The Critical Thinking) từ đó mới có TƯ DUY SÁNG TẠO (The Creative Thinking), bằng không thì một nền giáo dục của xã hội chỉ đào tạo ra những CỖ MÁY SUY NGHĨ thành MỘT KHUÔN đào tạo theo kiểu MUÔN NGƯỜI NHƯ MỘT, cái chết trong nhà tù của Socrates cách đây 25 thế kỷ (hai ngàn năm trăm năm) là một cảnh tỉnh với nền giáo dục và khoa học của nhân loại và câu nói lừng lẫy của Socrates vẫn còn vang vọng đến ngày nay trong thế giới nhân loại với nền văn minh vật chất và khoa học vật chất hỗn loạn thiếu hoặc vắng bóng Tính Nhân Văn (Humanitarian / Humane: Tính Nhân Đạo):
1- “Tout ce que je sais, c’est que je ne sais rien.” – “The only thing I know is that I know nothing at all.” – “Điều duy nhất mà tôi biết là tôi không biết gì cả.” – Socrates
2- “L’homme! Connais-toi toi-même!” – “Man! Know Thyself!” – “Hỡi con người! Hãy tự biết mình!” – Socrates
TƯ DUY ĐỘC LẬP (The Independent Thinking) là QUAN YẾU KHỞI NGUYÊN cho mọi hành trình tri thức, cho nên Đức Phật dặn dò thế hệ mai sau: “Ai tin ta mà không hiểu ta, ấy là phỉ báng ta.” – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Và Khổng Phu Tử cũng dạy như thế, ngài nói:
學而不思則罔,思而不學則殆
Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi
Học mà không suy nghĩ ắt mê lầm, suy nghĩ mà không học tất nguy hại
Khoa Học là hành trình nhận thức và khai phá, tìm tòi, phát minh ra tri thức – đó là một trong những hoạt động của con người bên cạnh các hoạt động kinh tế, giáo dục, nghệ thuật, v.v. nói chung là các hoạt động tinh thần mang tính sáng tạo ra các GIÁ TRỊ CỐT LÕI (CORE VALUES) và các GIÁ TRỊ TINH THẦN (THE SPIRITUAL VALUES) có tính Tính Nhân Văn (Humanitarian / Humane: Tính Nhân Đạo) và có ĐẠO ĐỨC (MORALITY) giàu lòng nhân ái, đó là cái GỐC của âm nhạc, tại sao các bậc Minh Triết Đông Tây đều nói âm nhạc có tính Thẩm Mỹ (Aesthetics) vì nó mang tính giáo dục cảm xúc trước Chân – Thiện – Mỹ là những GIÁ TRỊ TINH THẦN mà các loại động vật khác không có và chỉ con người mới có, cho nên năm 1437, Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tông giao cho việc định ra lễ nhạc của triều đình. Ông tấu lên vua rằng:
“Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho nơi thôn cùng, xóm vắng không có một tiếng hờn giận, oán sầu. Đó mới là giữ được cái gốc của nhạc.”
Bàn về Tri Thức Luận còn gọi là Nhận Thức Luận (Epistemology) là một bộ phận tri thức trong Triết Học (Philosophy) Tây phương, Khổng Tử cũng có những câu nói khiến người ngày nay (những con người còn lương tâm và lương tri đạo đức) cũng phải cúi đầu suy nghĩ:
知之為知之, 不知為不知, 是知也 (論語 – 為政)
Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã (Luận Ngữ – Vi Chính)
Biết (thì nói) là biết, không biết (thì nói) là không biết, thì (chính) là biết vậy.
và
KHÔNG BÀN NHỮNG CHUYỆN KHÔNG THỂ BIẾT VÀ KHÔNG THỂ CHỨNG MINH ĐƯỢC VÌ KHÔNG CÓ LỢI ÍCH THIẾT THỰC GÌ mà đây là lấy ý từ nguyên văn của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ, thiên Tử Lộ.
Khổng Tử không bàn đến chuyện quái dị, bạo lực, loạn lạc, và quỷ thần.
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế giảng Phật Pháp, nhiều môn đệ hỏi ngài:
“Bạch Thầy, có Thượng Đế sáng tạo vũ trụ muôn loài chăng?”
Đức Phật nhắm mắt không trả lời, hỏi mãi ngài phải mở mắt ra mà nói:
“Thượng Đế có hay không thì không liên quan đến quá trình tu học …” và “Những gì ta giảng dạy chỉ là nắm lá trong bàn tay của ta, trong khi trong rừng thì muôn cành lá.”
Đức Phật nói BI – TRÍ – DŨNG, Khổng Tử nói NHÂN – TRÍ – DŨNG, nghĩa là TỪ BI và NHÂN ÁI được xếp trên TRÍ TUỆ và DŨNG KHÍ của con người, Đức Jesus Christus nói đó là BÁC ÁI. Xem thế đủ biết Tính Nhân Văn (Humanitarian / Humane: Tính Nhân Đạo), là sự yêu thương con người được đề cao thế nào mà ta gọi là NHÂN TÍNH khác xa với THÚ TÍNH.
Có một câu nói sau đây thường được trích dẫn cho là của Karl Marx cha đẻ của Chủ Nghĩa Marx (Marxism):
“Chỉ có súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của đồng loại mà chăm lo riêng cho bộ lông của mình.” – Karl Marx.
Có một câu nguyên văn Anh ngữ có cùng một ý nghĩa như vậy sau đây:
“If one wants to be an ox one can easily turn one’s back on human suffering and look after one’s own skin.” – dịch nghĩa: “Nếu muốn làm trâu bò thì người ta có thể dễ dàng quay lưng lại nỗi khổ của nhân loại mà chỉ lo cho thân mình.”
Các Thánh Lễ trong nhà thờ, các Linh Mục hay nói về tội ác và tội lỗi của Thuyết Ưu Sinh (Eugenics) và sự Kỳ Thị Chủng Tộc rất nhiều, và Tòa Thánh Vatican và Giáo Hội Công Giáo La Mã luôn luôn chống đối Thuyết Ưu Sinh (Eugenics) vì đứng trước Đức Chúa Trời mọi người đều bình đẳng …
Thậm chí Phật Giáo còn đi xa hơn khi cho rằng CHÚNG SINH BÌNH ĐẲNG nghĩa là tất mọi sinh vật bất kể chứ không riêng con người đều bình đẳng trước Tự Nhiên Giới (Natural Cycles).
Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) và Phật Giáo Tiểu Thừa (Hinayana) tức Phật Giáo Bộ Phái (Nikaya) chỉ chứng nhận sự đắc quả Arhat (A La Hán) rồi Nhập Niết Bàn theo sát lời Đức Phật dạy rằng NGHIỆP QUẢ LÀ QUI LUẬT THẦN PHẬT KHÔNG CAN THIỆP ĐƯỢC vì Đức Phật từng nói: “Phải tự đốt đuốc mà đi.” nghĩa là phải TỰ LỰC TỰ ĐỘ chứ không có THA LỰC tức ĐỘ LỰC từ Thần Phật, NHÂN QUẢ TỰ MÌNH GÁNH LẤY, THẦN PHẬT KHÔNG CAN THIỆP VÀO NHÂN QUẢ NGHIỆP LỰC CỦA CON NGƯỜI.
Nhưng Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana) thì công nhận có sự PHỔ ĐỘ CHÚNG SINH từ các hàng Bồ Tát nên chỉ có Phật Giáo Đại Thừa mới có Hạnh Bồ Tát (Hạnh Bố Thí Phổ Độ) và các vị Phật Bồ Tát Phổ Độ Chúng Sinh như Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát có lời thề: “Khi nào địa ngục không còn chúng sinh đau khổ bị đọa vào địa ngục thì ta sẽ nhập Niết Bàn” thành ra trước xe tang chở quan tài người quá cố là xe có bàn thờ Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát đi trước để vong linh yên tâm có sự phù trợ của ngài mà yên tâm vào địa ngục vì ngài sẽ theo vào tới địa ngục chứ không dừng ở cửa địa ngục.
Và rồi Phật Quán Thế Âm Bồ Tát (Quán chứ không phải Quan, Quán là theo sát, Thế Âm là âm thanh thế gian tức tiếng than khổ của chúng sinh) luôn lắng nghe lời khẩn cầu đau khổ của chúng sinh mà phù hộ độ trì, v.v. và còn nhiều vị Phật Bồ Tát nữa.
Theo quan điểm của Phật Giáo Đại Thừa, mọi chúng sinh đều có Phật Tánh tức là đều có thể tu học để đạt Giác Ngộ Chứng Quả thành Phật chứ không chỉ có con người, điều đó nói lên lòng từ bi độ lượng vô cùng của Phật Giáo Đại Thừa.
Xin cảm ơn Thầy Phạm Việt Hưng và kênh Nhận Thức Mới đã có những buổi nói chuyện gợi mở nhiều vấn đề …!
Kính Thầy !
Con, Giuse Lê Long
07:00 A.M. sáng Chúa Nhật 28 tháng 9 năm 2025, Sài Gòn
Khoa Học là hành trình khám phá và tìm tòi tri thức của con người, nhưng Khoa Học phải được phát triển trên nền tảng Giáo Dục có Đạo Đức, mà Đạo Đức là Tính Nhân Văn (Humanitarian / Humane: Tính Nhân Đạo), là sự yêu thương con người.
Không thể có nền Khoa Học Phi Nhân Tính (Inhumane: Tính Vô Nhân Đạo), Thuyết Tiến Hóa (The Theory of Evolution) của Charles Darwin chính là nguồn gốc của Chủ Nghĩa Phân Biệt Chủng Tộc (Racism) của Chủ Nghĩa Quốc Xã (Nationalism) của Đức Quốc Xã (Nazi Germany) do Adolf Hitler dựng lên Lý Thuyết Dân Tộc Thượng Đẳng Aryan tức Thuyết Ưu Sinh (Eugenics) đề cao sự tiến hóa của dân da trắng Âu châu dẫn đến sự diệt chủng dân tộc Do Thái (Israeli) vốn là chủng Á châu xét về mặt Nhân Chủng Học (Anthropology) thời Đệ Nhị Thế Chiến (World War II), Chế Độ Apartheid (Kỳ Thị Chủng Tộc) ở Nam Phi và sự tôn sùng Tính Thượng Đẳng của sắc dân da trắng kỳ thị các dân tộc da màu (Colors) Á Phi và dân da đỏ (người Maya) ở Mỹ châu, sắc tộc thiểu số ở Úc châu, đã có những cuộc thảm sát tàn bạo người da đỏ và các sắc tộc thiểu số do người da trắng thực hiện ở Mỹ châu và Úc châu với các chính sách man rợ và vô nhân đạo nhất của cái gọi là nền văn minh Âu Mỹ.
Trước đây vào thời kỳ Cơn Sốt Vàng ở California (California Gold Rush) tại nước Mỹ vào quãng 1848–1855, số lượng người Trung Hoa di cư ồ ạt vào thời kỳ này, và đến sau Đệ Nhị Thế Chiến (World War II) là sự di dân ồ ạt của các sắc dân Á châu như Nhật Bản, Đại Hàn, Ấn Độ đã dẫn đến trào lưu của cái gọi là Họa Da Vàng tức là sự kỳ thị chủng tộc của dân da trắng với dân Á châu, và cho đến nay sự kỳ thị dân da màu vẫn còn ở Úc, New Zealand, Mỹ, Canada và nhiều nước Âu châu.
Có thời kỳ các nhà hàng và khách sạn ở các bang miền bắc nước Mỹ treo bảng NO COLORS (KHÔNG CÓ NGƯỜI DA MÀU) trước cửa để ngăn cấm các sắc tộc Á Phi bước vào.
Vậy thì sao? Lại có cả những người Á châu cổ súy cho Thuyết Tiến Hóa (?) Khoa Học và Giáo Dục là một trong những nền tảng thúc đẩy sự phát triển và văn minh văn hóa trên địa cầu, Khoa Học để phục vụ đời sống con người với các phát minh mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn, thay vì vậy, lại có những phát minh dẫn đến sự sáng chế các vũ khí khoa học tối tân có tính hủy diệt, đó chính là nguyên nhân mà Albert Einstein từ chối không tham gia vào dự án Manhattan (Manhattan Project) do chính phủ Mỹ tiến hành nhằm chế tạo vũ khí nguyên tử dẫn đến hai trái bom nguyên tử phá hủy hai thành phố Nagasaki và Hiroshima ở Nhật Bản, những Tên Lửa Hành Trình (Cruise Missile) xuyên lục địa bắn từ châu lục này sang châu lục khác, bom Napan (Bom Lửa), Bom Bi được dùng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, v.v. …
“Le science sans conscience n’est que ruine de l’âme.” (“Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ là sự tàn lụi của tâm hồn.”) – Văn sĩ Pháp François Rabelais (1483–1553).
Các Khoa Học Gia Âu Mỹ, vốn có tham vọng cùng cực, luôn tự phụ trí tuệ của con người, luôn tìm cách giải thích mọi sự, nhưng trí tuệ của con người chỉ là tiếng nói vô vọng trong vũ trụ mênh mông, hàng tỉ năm của nền văn minh địa cầu so với vũ trụ chỉ là một cái chớp mắt không hề có ý nghĩa gì …!
“Men go abroad to wonder at the heights of mountains, at the huge waves of the sea, at the long courses of the rivers, at the vast compass of the ocean, at the circular motions of the stars, and they pass by themselves without wondering.” (St. Augustine)
“Người ta thường bàng hoàng ngây ngất trước cảnh quan những rặng núi cao hùng vĩ, những ngọn sóng bao la của biển cả, những dòng sông chảy dài miên man không dứt, những “tấm thảm” đại dương mênh mông, những chu kỳ chuyển động không ngừng của các tinh tú trong vũ trụ, thế mà con người lại bỏ qua chính mình mà không hề tự vấn.” (Thánh Augustine)
Sự ngạo mạn của con người thật là đáng sợ, thứ vũ khí nguy hiểm nhất trong xã hội con người và nhân loại không phải là các loại vũ khí khoa học hiện đại mà chính là trí tuệ của sự vô đạo đức và phi nhân tính. Triết gia Hy Lạp cổ đại Socrates cuối đời bị bức tử phải uống thuốc độc chết trong nhà tù với tội danh LÀM HƯ HỎNG THẾ HỆ THANH NIÊN THÀNH BANG ATHENS (ATHENS LÀ THỦ ĐÔ CỦA HY LẠP ĐẾN NGÀY NAY) chỉ vì Socrates dạy rằng trên hành trình tri thức phải biết ĐẶT CÂU HỎI tức là nhấn mạnh đến TƯ DUY ĐỘC LẬP, một người có nền học vấn và giáo dục căn bản thì TUYỆT ĐỐI KHÔNG NÓI THEO VÀ KHÔNG NÓI LEO, có TƯ DUY ĐỘC LẬP (The Independent Thinking) thì mới có TƯ DUY PHẢN BIỆN (The Critical Thinking) từ đó mới có TƯ DUY SÁNG TẠO (The Creative Thinking), bằng không thì một nền giáo dục của xã hội chỉ đào tạo ra những CỖ MÁY SUY NGHĨ thành MỘT KHUÔN đào tạo theo kiểu MUÔN NGƯỜI NHƯ MỘT, cái chết trong nhà tù của Socrates cách đây 25 thế kỷ (hai ngàn năm trăm năm) là một cảnh tỉnh với nền giáo dục và khoa học của nhân loại và câu nói lừng lẫy của Socrates vẫn còn vang vọng đến ngày nay trong thế giới nhân loại với nền văn minh vật chất và khoa học vật chất hỗn loạn thiếu hoặc vắng bóng Tính Nhân Văn (Humanitarian / Humane: Tính Nhân Đạo):
1- “Tout ce que je sais, c’est que je ne sais rien.” – “The only thing I know is that I know nothing at all.” – “Điều duy nhất mà tôi biết là tôi không biết gì cả.” – Socrates
2- “L’homme! Connais-toi toi-même!” – “Man! Know Thyself!” – “Hỡi con người! Hãy tự biết mình!” – Socrates
TƯ DUY ĐỘC LẬP (The Independent Thinking) là QUAN YẾU KHỞI NGUYÊN cho mọi hành trình tri thức, cho nên Đức Phật dặn dò thế hệ mai sau: “Ai tin ta mà không hiểu ta, ấy là phỉ báng ta.” – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Và Khổng Phu Tử cũng dạy như thế, ngài nói:
學而不思則罔,思而不學則殆
Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi
Học mà không suy nghĩ ắt mê lầm, suy nghĩ mà không học tất nguy hại
Khoa Học là hành trình nhận thức và khai phá, tìm tòi, phát minh ra tri thức – đó là một trong những hoạt động của con người bên cạnh các hoạt động kinh tế, giáo dục, nghệ thuật, v.v. nói chung là các hoạt động tinh thần mang tính sáng tạo ra các GIÁ TRỊ CỐT LÕI (CORE VALUES) và các GIÁ TRỊ TINH THẦN (THE SPIRITUAL VALUES) có tính Tính Nhân Văn (Humanitarian / Humane: Tính Nhân Đạo) và có ĐẠO ĐỨC (MORALITY) giàu lòng nhân ái, đó là cái GỐC của âm nhạc, tại sao các bậc Minh Triết Đông Tây đều nói âm nhạc có tính Thẩm Mỹ (Aesthetics) vì nó mang tính giáo dục cảm xúc trước Chân – Thiện – Mỹ là những GIÁ TRỊ TINH THẦN mà các loại động vật khác không có và chỉ con người mới có, cho nên năm 1437, Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tông giao cho việc định ra lễ nhạc của triều đình. Ông tấu lên vua rằng:
“Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho nơi thôn cùng, xóm vắng không có một tiếng hờn giận, oán sầu. Đó mới là giữ được cái gốc của nhạc.”
Bàn về Tri Thức Luận còn gọi là Nhận Thức Luận (Epistemology) là một bộ phận tri thức trong Triết Học (Philosophy) Tây phương, Khổng Tử cũng có những câu nói khiến người ngày nay (những con người còn lương tâm và lương tri đạo đức) cũng phải cúi đầu suy nghĩ:
知之為知之, 不知為不知, 是知也 (論語 – 為政)
Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã (Luận Ngữ – Vi Chính)
Biết (thì nói) là biết, không biết (thì nói) là không biết, thì (chính) là biết vậy.
và
KHÔNG BÀN NHỮNG CHUYỆN KHÔNG THỂ BIẾT VÀ KHÔNG THỂ CHỨNG MINH ĐƯỢC VÌ KHÔNG CÓ LỢI ÍCH THIẾT THỰC GÌ mà đây là lấy ý từ nguyên văn của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ, thiên Tử Lộ.
子不語怪、力、亂、神。(論語,子路)
Tử bất ngữ quái, lực, loạn, thần. (Luận Ngữ, [thiên] Tử Lộ)
Khổng Tử không bàn đến chuyện quái dị, bạo lực, loạn lạc, và quỷ thần.
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế giảng Phật Pháp, nhiều môn đệ hỏi ngài:
“Bạch Thầy, có Thượng Đế sáng tạo vũ trụ muôn loài chăng?”
Đức Phật nhắm mắt không trả lời, hỏi mãi ngài phải mở mắt ra mà nói:
“Thượng Đế có hay không thì không liên quan đến quá trình tu học …” và “Những gì ta giảng dạy chỉ là nắm lá trong bàn tay của ta, trong khi trong rừng thì muôn cành lá.”
Đức Phật nói BI – TRÍ – DŨNG, Khổng Tử nói NHÂN – TRÍ – DŨNG, nghĩa là TỪ BI và NHÂN ÁI được xếp trên TRÍ TUỆ và DŨNG KHÍ của con người, Đức Jesus Christus nói đó là BÁC ÁI. Xem thế đủ biết Tính Nhân Văn (Humanitarian / Humane: Tính Nhân Đạo), là sự yêu thương con người được đề cao thế nào mà ta gọi là NHÂN TÍNH khác xa với THÚ TÍNH.
Có một câu nói sau đây thường được trích dẫn cho là của Karl Marx cha đẻ của Chủ Nghĩa Marx (Marxism):
“Chỉ có súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của đồng loại mà chăm lo riêng cho bộ lông của mình.” – Karl Marx.
Có một câu nguyên văn Anh ngữ có cùng một ý nghĩa như vậy sau đây:
“If one wants to be an ox one can easily turn one’s back on human suffering and look after one’s own skin.” – dịch nghĩa: “Nếu muốn làm trâu bò thì người ta có thể dễ dàng quay lưng lại nỗi khổ của nhân loại mà chỉ lo cho thân mình.”
Các Thánh Lễ trong nhà thờ, các Linh Mục hay nói về tội ác và tội lỗi của Thuyết Ưu Sinh (Eugenics) và sự Kỳ Thị Chủng Tộc rất nhiều, và Tòa Thánh Vatican và Giáo Hội Công Giáo La Mã luôn luôn chống đối Thuyết Ưu Sinh (Eugenics) vì đứng trước Đức Chúa Trời mọi người đều bình đẳng …
Thậm chí Phật Giáo còn đi xa hơn khi cho rằng CHÚNG SINH BÌNH ĐẲNG nghĩa là tất mọi sinh vật bất kể chứ không riêng con người đều bình đẳng trước Tự Nhiên Giới (Natural Cycles).
Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) và Phật Giáo Tiểu Thừa (Hinayana) tức Phật Giáo Bộ Phái (Nikaya) chỉ chứng nhận sự đắc quả Arhat (A La Hán) rồi Nhập Niết Bàn theo sát lời Đức Phật dạy rằng NGHIỆP QUẢ LÀ QUI LUẬT THẦN PHẬT KHÔNG CAN THIỆP ĐƯỢC vì Đức Phật từng nói: “Phải tự đốt đuốc mà đi.” nghĩa là phải TỰ LỰC TỰ ĐỘ chứ không có THA LỰC tức ĐỘ LỰC từ Thần Phật, NHÂN QUẢ TỰ MÌNH GÁNH LẤY, THẦN PHẬT KHÔNG CAN THIỆP VÀO NHÂN QUẢ NGHIỆP LỰC CỦA CON NGƯỜI.
Nhưng Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana) thì công nhận có sự PHỔ ĐỘ CHÚNG SINH từ các hàng Bồ Tát nên chỉ có Phật Giáo Đại Thừa mới có Hạnh Bồ Tát (Hạnh Bố Thí Phổ Độ) và các vị Phật Bồ Tát Phổ Độ Chúng Sinh như Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát có lời thề: “Khi nào địa ngục không còn chúng sinh đau khổ bị đọa vào địa ngục thì ta sẽ nhập Niết Bàn” thành ra trước xe tang chở quan tài người quá cố là xe có bàn thờ Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát đi trước để vong linh yên tâm có sự phù trợ của ngài mà yên tâm vào địa ngục vì ngài sẽ theo vào tới địa ngục chứ không dừng ở cửa địa ngục.
Và rồi Phật Quán Thế Âm Bồ Tát (Quán chứ không phải Quan, Quán là theo sát, Thế Âm là âm thanh thế gian tức tiếng than khổ của chúng sinh) luôn lắng nghe lời khẩn cầu đau khổ của chúng sinh mà phù hộ độ trì, v.v. và còn nhiều vị Phật Bồ Tát nữa.
Theo quan điểm của Phật Giáo Đại Thừa, mọi chúng sinh đều có Phật Tánh tức là đều có thể tu học để đạt Giác Ngộ Chứng Quả thành Phật chứ không chỉ có con người, điều đó nói lên lòng từ bi độ lượng vô cùng của Phật Giáo Đại Thừa.
Xin cảm ơn Thầy Phạm Việt Hưng và kênh Nhận Thức Mới đã có những buổi nói chuyện gợi mở nhiều vấn đề …!
Kính Thầy !
Con, Giuse Lê Long
07:00 A.M. sáng Chúa Nhật 28 tháng 9 năm 2025, Sài Gòn
ThíchThích