Intuition: an eternal puzzle / Trực giác: một thách đố vĩnh cửu (2)

David Hilbert and Albert Einstein were two of the greatest scientists of the 20th century, but they had opposite views on the role of intuition in science. While Hilbert claimed mathematics does not require intuition, Einstein asserted that the only thing truly valuable is intuition. Who is right?

David Hilbert và Albert Einstein là hai trong số những nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ 20, nhưng hai ông có quan điểm đối lập về vai trò của trực giác trong khoa học. Trong khi Hilbert tuyên bố toán học không cần đến trực giác, Einstein khẳng định thứ duy nhất thực sự có giá trị là trực giác. Ai đúng?

Nếu bạn là một người có suy nghĩ giống Einstein, tức là tin vào trực giác và cho rằng trực giác giống như tia chớp trong đêm đen giúp bạn nhìn thấy những sự thật mà trước đó bạn không thấy, hẳn là bạn phải ngạc nhiên đặt câu hỏi “Tại sao một người tài giỏi như David Hilbert (1862 – 1943), một trong những nhà toán học vĩ đại nhất mọi thời đại, lại có thể phạm sai lầm lớn về nhận thức đến nỗi cho rằng toán học không cần đến trực giác?”. Chúng ta sẽ đào sâu thắc mắc này trong phần bình luận, còn bây giờ xin bạn đọc câu nói sau đây của Hilbert để biết rõ quan điểm của ông:

Toán học là một khoa học không có cái gì là tiền giả định. Để khám phá ra nó, tôi không cần đến Chúa như Kronecker, không cần giả định về một năng lực đặc biệt… như Poincaré, không cần trực giác bẩm sinh như Brower…”[1].

Trong khi đó Einstein  khẳng định[2]:

1/       Tuy nhiên, sẽ có một thời điểm trong đời mỗi người mà chỉ có trực giác mới có thể tạo ra bước nhảy vọt về phía trước và không bao giờ bạn biết chính xác điều đó xảy ra bằng cách nào. Người ta không bao giờ có thể biết tại sao nhưng người ta phải chấp nhận trực giác như một sự thật / There will come a point in everyone’s life, however, where only intuition can make the leap ahead, without ever knowing precisely how. One can never know why but one must accept intuition as a fact.

2/       Thứ duy nhất thực sự có giá trị là trực giác. Tri thức có ít việc phải làm trên con đường dẫn tới khám phá / The only real valuable thing is intuition. The intellect has little to do on the road to discovery.

3/       Phương pháp tư duy thực sự có giá trị để đạt được một hệ thống mạch lạc về mặt logic là trực giác. / The really valuable method of thought to arrive at a logically coherent system is intuition.

4/       Tôi tin vào trực giác và nguồn cảm hứng…đôi khi tôi cảm thấy chắc chắn mình đúng trong khi không biết lý do tại sao. / I believe in intuition and inspiration…at times I feel certain I am right while not knowing the reason.

5/       Tư duy trực giác là một món quà thiêng liêng và trí óc lý trí là gã hầu trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh gã hầu và quên mất món quà. / The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honors the servant and has forgotten the gift.

6/       Trí tuệ có rất ít việc phải làm trên con đường khám phá. Có một bước nhảy vọt trong ý thức, bạn gọi nó là Trực giác hay gì tùy bạn, giải pháp đến với bạn và bạn không biết bằng cách nào hoặc tại sao. / The intellect has little to do on the road to discovery. There comes a leap in consciousness, call it Intuition or what you will, the solution comes to you and you don’t know how or why.

7/       Điều đó xảy đến với tôi bằng trực giác, và âm nhạc chính là động lực đằng sau trực giác đó. Khám phá của tôi là kết quả của nhận thức âm nhạc. / It occurred to me by intuition, and music was the driving force behind that intuition. My discovery was the result of musical perception.

8/       Ai được bao quanh bởi các sự kiện, không cho phép mình ngạc nhiên, không có ánh sáng trực giác, không có giả thuyết vĩ đại, không có rủi ro, kẻ ấy đang ở trong một phòng giam bị khóa. Sự thiếu hiểu biết không thể đóng kín tâm trí và trí tưởng tượng bằng cách nào chắc chắn hơn thế / Man, surrounded by facts, permitting himself no surprise, no intuitive flash, no great hypothesis, no risk, is in a locked cell. Ignorance cannot seal the mind and imagination more securely.

9/       Ai coi thường sức mạnh của trực giá, kẻ ấy không bao giờ vượt lên khỏi hàng ngũ những người chỉ biết hành nghề tính toán. / One who scorns the power of intuition will never rise above the ranks of journeyman calculator.

10/     Không có cách hợp lý nào để khám phá những quy luật cơ bản này. Chỉ có con đường trực giác được hỗ trợ bởi cảm giác về trật tự ẩn sau vẻ bề ngoài. / There is no logical way to the discovery of these elemental laws. There is only the way of intuition, which is helped by a feeling for the order lying behind the appearance.

11/     Một ý tưởng mới xuất hiện một cách đột ngột và theo một cách khá trực quan, nhưng trực giác chẳng là gì khác ngoài kết quả của trải nghiệm trí tuệ trước đó. / A new idea comes suddenly and in a rather intuitive way, but intuition is nothing but the outcome of earlier intellectual experience.

12/     Điều thực sự quan trọng là trực giác / Was wirklich zählt, ist Intuition

13/     Quả thật, không phải trí tuệ mà chính trực giác đã nâng cao nhân loại. Trực giác cho con người biết mục đích của mình trong cuộc sống này. / Indeed, it is not intellect, but intuition which advances humanity. Intuition tells man his purpose in this life.

14/     Nhiệm vụ cao nhất của nhà vật lý là đi đến những định luật cơ bản phổ quát mà từ đó vũ trụ có thể được xây dựng bằng suy luận thuần túy. Không có con đường hợp lý nào cho những quy luật này; chỉ có trực giác, dựa trên sự hiểu biết đồng cảm về kinh nghiệm, mới có thể tiếp cận được những định luật ấy. / The supreme task of the physicist is to arrive at those universal elementary laws from which the cosmos can be built up by pure deduction. There is no logical path to these laws; only intuition, resting on sympathetic understanding of experience, can reach them.

15/     Chắc chắn có những điều đáng tin. Tôi tin vào tình anh em của con người và sự độc đáo của mỗi cá nhân. Nhưng nếu bạn yêu cầu tôi chứng minh điều tôi tin thì tôi không thể. Bạn biết chúng là đúng nhưng bạn có thể dành cả đời mà không thể chứng minh được chúng. Tâm trí chỉ có thể tiến xa hơn dựa trên những gì nó biết và có thể chứng minh. Sẽ đến một thời điểm mà tâm trí có một bước nhảy vọt – gọi nó là trực giác hay gì tùy bạn – và đạt đến một mức độ hiểu biết cao hơn, nhưng không bao giờ có thể chứng minh được làm thế nào nó đạt được điều đó. Tất cả những khám phá vĩ đại đều liên quan đến bước nhảy vọt như vậy. / Certainly there are things worth believing. I believe in the brotherhood of man and the uniqueness of the individual. But if you ask me to prove what I believe, I can’t. You know them to be true but you could spend a whole lifetime without being able to prove them. The mind can proceed only so far upon what it knows and can prove. There comes a point where the mind takes a leap—call it intuition or what you will—and comes out upon a higher plane of knowledge, but can never prove how it got there. All great discoveries have involved such a leap.

16/     Phương pháp tư duy thực sự có giá trị để đạt được một hệ thống mạch lạc về mặt logic là trực giác. / The really valuable method of thought to arrive at a logically coherent system is intuition.

BÌNH LUẬN

Trực giác là một sự thật, một hiện tượng khách quan, một hiện thực không thể chối cãi được, và cho đến nay khoa học không thể giải thích được, có thể vĩnh viễn không giải thích được.

Mơ tưởng của Hilbert về một hệ thống toán học không cần đến trực giác là mơ tưởng hão huyền. Hilbert sai, Einstein đúng! Qua đây có thể thấy “toán học” và “triết học toán học” là hai vấn đề khác nhau. David Hilbert là nhà toán học lỗi lạc, nhưng tầm thường về triết học toán học.

Tại sao Hilbert tầm thường về triết học toán học? Vì ông quá tin vào sức mạnh của “chủ nghĩa duy lý” (rationalism) – chủ nghĩa cho rằng tri thức khoa học và lý lẽ có thể giải thích được mọi thứ.

Nói cách khác, Hilbert có trực giác toán học siêu việt, nhưng không có trực giác triết học toán học siêu việt. Triết học toán học của ông bị chủ nghĩa duy lý làm cho méo mó, sai lầm. Nói cách khác, đối với chủ nghĩa duy lý mà Hilbert là một ông vua, khoa học và lý lẽ chính là “Chúa”! Họ lật đổ Chúa của Cơ đốc giáo và thay thế bằng “Chúa” của họ, tức khoa học và lý lẽ.

Chủ nghĩa duy lý vốn đã có từ xa xưa, nhưng chỉ đến khi Hilbert tuyên bố “Chúng ta phải biết; Chúng ta sẽ biết” (We must know; We will know) thì chủ nghĩa ấy mới đạt tới mức tột đỉnh tham vọng và tột đỉnh kiêu ngạo. Nhưng lúc nó tham vọng nhất và kiêu ngạo nhất cũng là lúc nó sụp đổ!

Người làm cho nó sụp đổ tan tành là chàng thanh niên Kurt Gödel, một tiến sĩ toán học mới 25 tuổi!

Nếu không có Định lý Bất toàn của Kurt Gödel thì chủ nghĩa này sẽ còn tác yêu tác quái tiếp tục, vì uy tín của Hilbert rất lớn. Phúc thay, Định lý Bất toàn ra đời năm 1931 đã làm sụp đổ chủ nghĩa duy lý trong toán học nói riêng và trong triết học nhận thức nói chung. Ngày nay không ai còn dám tự phụ vỗ ngực tuyên bố khoa học có thể giải thích được mọi thứ nữa. Ai tuyên bố như thế chắc chắn là người nông cạn, chẳng biết gì về Định lý Gödel. Thí dụ, tuyên bố khoa học AI sẽ tạo ra trí tuệ thông minh như con người hoặc hơn con người, đó là một ảo tưởng tương tự như ảo tưởng của Hilbert.

Thực ra ngay từ thế kỷ 17, thần đồng toán học Blaise Pascal cũng đã khẳng định rằng toán học mãi mãi cần đến trực giác. Thật vậy, trong cuốn “Về nghệ thuật thuyết phục” (De l’art de persuader) ông đã chỉ ra rằng toán học không thể chứng minh được mọi thứ, cụ thể là không thể chứng minh hệ tiên đề của mình. Không có cách nào xây dựng hệ tiên đề ngoài trực giác. Ông viết:

…những nguyên lý đầu tiên này chỉ có thể nắm bắt được bằng trực giác, và rằng sự thật này khẳng định sự cần thiết phải nhờ cậy đến Chúa trong việc khám phá chân lý…nếu khoa học này không xác định và chứng minh được mọi thứ thì lý do đơn giản là vì nó không thể[3].

Ba thế kỷ sau, Định lý Gödel cũng đi đến kết luận như Pascal. Pascal đi đến kết luận của mình bằng triết học toán học. Gödel đi đến kết luận của mình bằng chứng minh toán học chặt chẽ không thể tranh cãi. Sau ba thế kỷ, hai tư tưởng lớn gặp nhau!

Định lý Gödel là một cú sốc đối với Hilbert. Hilbert đã có 12 năm (1931 – 1943) để xem xét Định lý Gödel, nhưng ông không bao giờ lên tiếng về định lý này. Đó là một trong những lý do để Định lý Gödel bị chìm trong quên lãng một thời gian rất dài, đơn giản vì uy tín của Hilbert rất lớn.

Mãi cho đến cuối thế kỷ 20, Định lý Gödel mới được phổ biến rộng rãi. Đó là lúc giới toán học thực sự tỉnh ngộ. Sự thật làm cho giới toán học tỉnh ngộ chính là khoa học computer và công nghệ thông tin. Chính khoa học này gặp phải những bài toán không giải được nên các nhà khoa học mới ngộ ra rằng khoa học computer có giới hạn, và lúc ấy người ta mới bừng tỉnh nhận ra rằng Định lý Bất toàn của Kurt Gödel đã tiên đoán điều này từ lâu, nhưng nhân loại chậm hiểu. Nếu Hilbert đúng, tức là nếu quả thật toán học không cần đến trực giác thì sớm muộn các nhà toán học cũng sẽ tìm ra một quy trình tự động chứng minh hoặc phủ nhận bất kỳ một bài toán toán học nào. Nhưng Định lý Bất toàn đã chỉ ra rằng đó là ảo tưởng hão huyền!

Nếu toán học là khoa học mạnh nhất về logic và chứng minh mà còn cần phải có trực giác thì liệu có ngành khoa học nào khác, hay lĩnh vực nhận thức nào khác, không cần đến trực giác?

Câu trả lời là KHÔNG!

Mọi lĩnh vực nhận thức đều rất cần đến trực giác. Thậm chí, lĩnh vực nhận thức siêu hình đòi hỏi trực giác 100%! Chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này trong bài kỳ sau.

DJP Sydney 19/12/2023


[1] Xem “Định lý Gödel –Nền tảng của Khoa học Nhận thức Hiện đại”, Phạm Việt Hưng, NXB Tri Thức, 2019, T.70, 2022, T.72. Nguyên bản tiếng Anh: “Mathematics is a presuppositionless science. To found it I do not need God, as does Kronecker, or the assumption of a special faculty of our understanding attuned to the principle of mathematical induction, as does Poincaré, or the primal intuition of Brouwer, …”.  NGUỒN: David Hilbert, Die Grundlagen der Mathematik, Hilbert’s program, 22C:096, University of Iowa > http://www.celebatheists.com/wiki/David_Hilbert

[2] https://www.azquotes.com/author/4399-Albert_Einstein/tag/intuition

[3] Xem “Định lý Gödel –Nền tảng của Khoa học Nhận thức Hiện đại”, Phạm Việt Hưng, NXB Tri Thức, 2019, T.48, 2022, T.50”. “… these principles can be grasped only through intuition, and that this fact underscored the necessity for submission to God in searching out truths” https://en.wikipedia.org/wiki/Blaise_Pascal

8 thoughts on “Intuition: an eternal puzzle / Trực giác: một thách đố vĩnh cửu (2)

  1. Bác Hưng thân mến.
    Cháu rất lấy làm biết ơn và vui mừng khi có thể thông qua bác để có thể tiếp cận được những thông tin khoa học quý báu, đặc biệt là những bài viết về chủ đề Trực giác.

    Nhân tiện đây cháu cũng xin gửi tới bác 1 số câu hỏi mà cháu vẫn hay thắc mắc.
    ” Trực giác ” được cháu hiểu nôm na là 1 khả năng nhận biết tức thời 1 điều gì đó là đúng mà không dựa trên kinh nghiệm, tức là Trực giác mang tính tiên nghiệm. Vậy thì, liệu có phải mọi nhận thức mà chúng ta có được thông qua trực giác đều là hoàn toàn đúng? liệu rằng trực giác của chúng ta có thể sai hay không?

    Trên thực tế chúng ta vẫn có thể nhầm lẫn trực giác với tưởng tượng hoặc bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm cũng như các giác quan thường nghiệm mà chúng ta có, vậy làm sao xác định được khi nào mà trực giác của chúng ta hành động?

    Trực giác, nếu như là 1 công cụ nhận thức giúp chúng ta hiểu biết hơn về thế giới, chiếu theo Định lý Godel, thì Trực giác cũng như 1 hệ tự quy chiếu của chúng ta về vũ trụ mà chúng ta là 1 phần trong đó? vậy điều gì khiến cho Trực giác mà chúng ta luôn nghĩ rằng đó là những nhận thức đúng? liệu rằng Trực giác không nằm trong phạm vi tác động của Định lý Godel?

    Trên đây là 1 số thắc mắc cũng như câu hỏi của cháu liên quan đến chủ đề Trực giác, cháu hy vọng nhận được câu trả lời cũng như quan điểm của bác về những khúc mắc này ạ.

    Cháu cảm ơn bác.

    Hà Nội
    12 – 21 – 2023

    Đã thích bởi 1 người

    • Trả lời bạn Michael,
      Cảm ơn bạn Michael vì ý kiến RẤT HAY của bạn. Ý kiến của bạn đụng đến cả chiều SÂU lẫn chiều RỘNG của nhận thức luận. Do đó tôi nghĩ rằng câu hỏi của bạn xứng đáng được trả lời một cách thấu đáo, kỹ lưỡng, thay vì chỉ một vài dòng sơ lược trên mục comment. Ý tôi nói là tôi sẽ phải suy nghĩ kỹ để trả lời câu hỏi của bạn dưới dạng một bài viết chính thức trên trang nhà của tôi. Đó cũng là cách để phổ biến những tư tưởng rất thú vị của bạn đến một số độc giả rộng rãi hơn. Vậy bạn vuilòng chờ đợi nhé.
      Chúc bạn có một Giáng Sinh và Năm Mới TUYỆT VỜI!
      PVHg

      Đã thích bởi 1 người

    • Theo tôi nghĩ, chúng ta nhận thức thế giới chung quanh bằng quá trình 5 giác quan dùng 5 phương thức khác nhau thu thập thông tin “thô” từ trong thế giới xung quanh sau đó truyền về bộ não; sau đó bộ não như 1 chương trình có nhiệm vụ xử lý những thông tin “thô” này và cho ra những kết luận, những thành phẩm tốt nhất mà chương trình này có thể “chạy” được. Những chương trình não bộ khác nhau có thể cho ra những sản phẩm hoàn toàn khác nhau với cùng 1 dữ liệu đầu vào, ví dụ: cùng chứng kiến 1 hành động cứu giúp dạng “save a life”, 1 người có thể phớt lờ không quan tâm trong khi người khác sẽ cảm động và thấy ấm lòng.

      Trực Giác, về bản chất cũng là thông tin từ trong thế giới xung quanh được truyền về não bộ của chúng ta mà không thông qua 5 giác quan thông thường, cứ tạm thời cho là những thông tin mà Trực Giác đem lại có độ “mịn” hơn những thông tin thông thường mà chúng ta có được từ 5 giác quan cơ bản.

      * Độ “mịn”: thí dụ cùng là thông tin về 1 tấm ảnh, nếu nhận được từ Trực Giác thì có “độ phân giải” cao hơn là từ Thị Giác.

      Khi chúng ta dùng thị giác thu thập thông tin từ 1 khung cảnh, thí dụ 1 billboard từ xa, thì có vài trường hợp xảy ra:

      1. Thị giác tốt (mắt 10/10 không cận, viễn, loạn), tinh thần tỉnh táo, ta thuật lại đúng 100% nội dung trên billboard (thu thập dữ liệu tốt, xử lý dữ liệu tốt).
      2. Thị giác tốt, tinh thần hoang mang không tỉnh táo –>không thể tường thuật lại đúng 100% nội dung (thu thập tốt, xử lý tồi).
      3. Thị giác không tốt, tinh thần không tỉnh táo –>không thể tường thuật lại đúng 100% nội dung.
      4. Thị giác không tốt, tinh thần minh mẫn, có xác suất nhỏ tường thuật đúng nội dung nếu có đủ kinh nghiệm & trình độ.

      Do đó theo tôi, vấn đề Đúng/Sai tức là vấn đề chúng ta có tường thuật lại được nội dung tấm billboard hay không là do nguyên nhân chủ quan của chúng ta, còn tấm billboard thì vẫn là tấm billboard.

      Thông tin từ Trực Giác phải có độ mịn, toàn diện, sâu sắc và đặc biệt, “nhân tính” hơn thông thường, do đó theo tôi không nên dùng Đúng/Sai cho thông tin từ Trực Giác mang lại mà phải là Đầy Đủ/Không Đầy Đủ hoặc Hoàn Chỉnh/Không Hoàn Chỉnh. Tệp thông tin hoàn chỉnh, đầy đủ do Trực Giác mang lại có độ chính xác 100%, nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của Định Lý Godel.

      Thích

      • Sydney 27/12/2023
        Thư gửi các bạn Michael, Huỳnh Tâm, Trọng Đức,
        Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến các bạn. Ý kiến của bạn đều rất hay. Tôi quá bận nên chưa thể trao đổi với từng ý kiến của các bạn được, mong các bạn thông cảm. Nhưng tôi có thể nói ngay rằng tôi rất thích ý kiến của các bạn, và tôi sẽ trao đổi trong thời gian tới. Mong các bạn tiếp tục có thêm ý kiến, vì chủ đề trực giác rất phong phú, có quá nhiều điều để nói.
        Nhân dịp Năm Mới 2024 sắp tới, xin chúc cá bạn tràn đầy sức khỏe và may mắn, thành công.
        Phạm Việt Hưng

        Thích

  2. Đọc xong bài viết của bác, tôi nghĩ rằng Einstein không phải một người tầm thường. Ông đã thừa nhận một sự thật khách quan nằm ngoài khả năng của bản thân. Hoặc nói một cách dễ hiểu hơn, Einstein có “cái tôi” nhỏ hơn và rất khiêm tốn trước Đấng Tạo Hoá.

    Tôi nghĩ rằng, để hiểu được trực giác là gì, đến từ đâu là một vấn đề cực kỳ phức tạp. Nó không phải là một vấn đề có thể dùng khoa học thực chứng để giải quyết. Vì điều này liên quan đến kết cấu tư duy và kết cấu của vũ trụ nói chung. Chẳng hạn, vật lý học hiện đại đã biết rằng thân thể người cấu thành từ các tế bào, dưới tế bào là phân tử, nguyên tử, điện tử, proton, quark,… rồi nhỏ nhỏ hơn nữa… Vậy tư duy con người đến từ tầng nào trong đó? Lại càng không biết được khởi nguồn của trực giác.

    Đôi khi chúng ta đứng trước một sự việc gì đó khó giải quyết, trong thời điểm cấp bách, trong đầu não bỗng dưng nảy ra cách giải quyết sáng suốt một cách bất ngờ; mà không biết nó đến từ đâu. Điều này hoàn toàn không đến từ tư duy hay trí tuệ.

    Những gì bản thân Einstein trải nghiệm về trực giác là tương đồng với bất kỳ cá nhân nào từng trải nghiệm, chỉ là họ có dám thừa nhận hay không mà thôi. Như vậy sẽ xuất hiện 2 kiểu người:
    – Thừa nhận trực giác: có xu hướng để tư duy rộng mở, sẵn sàng khám phá những điều mới.
    – Không thừa nhận trức giác: dường như đã đi đến ngõ cụt, chỉ tin và thừa nhận những gì tai nghe mắt thấy.

    Ông Kurt Gödel đã đúng khi cho rằng nếu muốn nhìn thấu một vấn đề thì cần nhảy ra khỏi vấn đề đó. Nếu hiểu theo cách này thì Hilbert đang giới hạn bản thân trong sợi dây xích (toán học); còn Einstein sẽ luôn tiến về phía trước để khám phá những kỳ diệu của Tạo Hoá.

    Đó chính là sự khác biệt cơ bản giữa hai nhà khoa học này.

    Thích

    • Sydney 27/12/2023
      Thư gửi các bạn Michael, Huỳnh Tâm, Trọng Đức,
      Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến các bạn. Ý kiến của bạn đều rất hay. Tôi quá bận nên chưa thể trao đổi với từng ý kiến của các bạn được, mong các bạn thông cảm. Nhưng tôi có thể nói ngay rằng tôi rất thích ý kiến của các bạn, và tôi sẽ trao đổi trong thời gian tới. Mong các bạn tiếp tục có thêm ý kiến, vì chủ đề trực giác rất phong phú, có quá nhiều điều để nói.
      Nhân dịp Năm Mới 2024 sắp tới, xin chúc cá bạn tràn đầy sức khỏe và may mắn, thành công.
      Phạm Việt Hưng

      Thích

  3. Pingback: TRỰC GIÁC: MỘT THÁCH ĐỐ VĨNH CỬU (2) - Nguồn Suối Tâm Linh. Net

  4. Pingback: TRỰC GIÁC: MỘT THÁCH ĐỐ VĨNH CỬU (3) - Nguồn Suối Tâm Linh. Net

Gửi phản hồi cho Michael Hủy trả lời