Faith and Reason / Đức tin và Lý trí

0 copy

Does Reason contradict Faith? No! In an article about Gödel’s Incompleteness Theorem, Perry Marshall said: “Faith and Reason are not enemies. In fact, the exact opposite is true. One is absolutely necessary to other to exist”. As Easter 2016 is approaching, it’s suitable time to discuss once again on Faith and Reason…

Lý trí có mâu thuẫn với Đức tin không? Không! Trong một bài báo về Định lý Bất toàn của Gödel, Perry Marshall nói: “Đức tin và lý lẽ không phải kẻ thù của nhau. Thực ra điều ngược lại mới đúng. Cái này nhất thiết cần cho cái kia để tồn tại.” Sắp tới Lễ Phục Sinh 2016, nay là lúc thích hợp để một lần nữa thảo luận về Đức tin và Lý trí…

Muốn đánh giá đức tin của bất kỳ ai, hãy đặt câu hỏi: “Bạn có tin vào sự phục sinh (resurrection) của Chúa Jesus không?”. Đó là một câu hỏi khó, thậm chí rất khó, không chỉ đối với người ngoại Đạo, mà khó ngay cả với những người trong Đạo. Bằng chứng là một người bạn của tôi, một người “Đạo gốc”, từng nói với tôi rằng chuyện Chúa Jesus đi trên mặt nước chắc chỉ là huyền thoại đặt ra để thu phục nhân tâm, chứ làm gì có thật. Tôi hơi ngạc nhiên và hỏi bạn tôi rằng nếu bạn không tin thì tại sao bạn lại thờ Chúa.

Đó là suy nghĩ của một người có Đạo, vậy trách gì một người ngoại Đạo nếu người ấy không tin vào Chúa?

Ngay cả ông Thomas, một môn đệ của Chúa Jesus, cũng không tin Chúa sống lại. Mãi đến khi Chúa hiện ra, đích thân ông sờ tay vào vết thương trên thân thể Chúa, vết tích của cuộc hành hình, ông mới tin. Chúa Jesus bảo ông: “Vì con thấy thầy, con mới tin. Phúc cho ai không thấy mà tin” (John 20:29).

Với những gì tôi đã trải nghiệm trong đời, và những gì tôi tiếp thu được qua sách vở, tôi thấy chuyện ông Thomas là một trong những điển tích hay nhất và có ý nghĩa nhất trong Tân Ước. Lời Chúa Jesus nói với ông Thomas cũng là một trong những lời dạy có ý nghĩa tâm linh sâu sắc nhất.

Thấm thía lời dạy đó, tôi từng nhủ thầm: “May mắn thay cho ai tìm thấy hoặc tìm lại được Đức tin, bất hạnh thay cho ai đánh mất hoặc không tìm thấy Đức tin”. Lời nhủ thầm đó dần dần đã thấm vào tiềm thức của tôi, và trở thành một tiền đề giúp tôi giải thích được nhiều sự kiện tâm linh và xã hội rất trớ trêu trong đời mà tôi gặp trực tiếp hoặc biết qua sách vở. Xin nêu lên ở đây  một trong những sự kiện tiêu biểu nhất. Đó là cuộc khủng hoảng đức tin của đại văn hào Lev Tolstoy

Lev Tolstoy là một đại văn hào, tác giả của những tác phẩm văn học vĩ đại như “Chiến tranh và Hòa bình”, “Anna Karenina”,… được cả thế giới ngưỡng mộ, và ông đã đạt tới vinh quang tột đỉnh của sự nghiệp. Nhưng chuyện đáng nói về ông hôm nay không phải là vinh quang của ông, không phải văn chương của ông, mà là cuộc khủng hoảng Đức tin nghiêm trọng ở ông – nghiêm trọng đến nỗi ông thấy cuộc đời thật vô nghĩa, và ông đã từng muốn tự tử.

Nội dung cuộc khủng hoảng ấy có thể tóm tắt ngắn gọn như sau: Ông xuất thân là người có Đạo, nhưng đã từ bỏ Đạo, đánh mất Đức tin, và không tìm thấy bất cứ cái gì để thay thế Đức tin đã mất. Toàn bộ sự thật này đã được chính ông kể lại rất trung thực trong cuốn “Tự Thú” (Confession), một cuốn tự truyện đã được dịch ra tiếng Việt bởi dịch giả Đỗ Tư Nghĩa. Xin chân thành cảm ơn dịch giả Đỗ Tư Nghĩa vì công trình dịch thuật rất bổ ích này.

Với “Tự Thú”, bức chân dung tự họa của Tolstoy đã được mô tả nổi bật trong sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lý trí và đức tin, giữa bản chất thiện lương của cá nhân với cái xu thế suy đồi vô đạo đức của thời đại, giữa số phận huy hoàng bề ngoài với nội tâm giằng xé cắn rứt, giữa Thượng Đế cao cả với sự hư hỏng đồi bại của con người,…

Thật vậy, Tolstoy không chỉ thành công trong văn học, mà thành công cả trong cuộc đời nói chung. Tiền tài, danh vọng, sức khỏe, gia đình êm ấm,… và cả lạc thú nữa, ông không còn thiếu thứ gì, thậm chí còn được thụ hưởng ở mức thừa thãi. Một người như thế lẽ ra phải rất hạnh phúc và thỏa mãn. Nếu không phải là Tolstoy, mà là một kẻ coi tiền bạc và danh vọng là thước đo giá trị (một kẻ sống trên những nền tảng luân lý mà Albert Einstein gọi là lý tưởng của bầy lợn) thì với những thành công như Tolstoy đã đạt được, ắt hẳn hắn sẽ phải rất đắc chí, vênh vác, nghĩ mình là loại người cao quý lắm. Nhưng trái lại, Tolstoy đã khám phá ra sự tột cùng vô nghĩa và giả tạo trong những thứ được gọi là thành công ấy, để rồi ông lao vào tìm kiếm cho đời một ý nghĩa đích thực. Nhưng bi kịch thay, chua chát thay, ông không tìm thấy ý nghĩa đó ở đâu cả. Sự bế tắc trong việc giải bài toán ý nghĩa cuộc sống đã đẩy ông vào tình trạng khủng hoảng đức tin – đức tin tôn giáo vốn có đã bị ông từ bỏ từ tuổi thiếu niên và ông không tìm thấy một đức tin nào khác để thay thế. Điều duy nhất ông tìm thấy, trớ trêu thay, như chính ông nói ra, ấy là cuộc đời thật vô nghĩa!

Tại sao vậy? Tại sao một con người thành công như thế mà lại rơi vào bi kịch thảm hại đến như thế? Cái gì là nguyên nhân dẫn tới bi kịch đó?

Đọc “Tự Thú”, tôi thấy nguyên nhân đó lộ ra rất rõ ràng: đó là cái bối cảnh xã hội khi ông sinh ra và lớn lên, cái không-thời-gian mà ông sống trong đó từ tuổi ấu thơ cho tới lúc nhắm mắt. Nói rõ hơn và cụ thể hơn, đó là sự trỗi dạy của chủ nghĩa duy vật và vô thần trong nửa đầu thế kỷ 19. Chủ nghĩa này đã tước bỏ Đức tin của cậu thiếu niên Lev Tolstoy, đẩy cậu vào một cuộc sống vật chất thuần túy lý trí, nhưng bản chất thiện lương và thông minh của Tolstoy lại giúp ông khám phá ra sự trống rỗng và vô nghĩa của cuộc sống mà ông đang dấn thân vào, nhưng không tìm được lối ra.

Có lẽ vì thế nên ngay trong Chương I, Tolstoy đã giới thiệu một biến cố xã hội có ảnh hưởng sâu xa đến lối sống và tư tưởng của ông sau này, đó là sự hạ bệ Thượng Đế và sự lên ngôi của chủ nghĩa vô thần. Ông viết về điều đó rất cụ thể, rõ ràng như sau:

  • Tôi nhớ rằng khi tôi 11 tuổi, một cậu học sinh trung học tên là Volodin’ka M, thông báo về phát hiện mới nhất tại trường cậu. Cái phát hiện đó, là không có Thượng đế, và những điều mà người ta đang dạy chúng tôi chỉ là những câu chuyện cổ tích (đó là vào năm 1838).

Xin nhắc lại, đó là vào năm 1838, một cột mốc lịch sử đánh dấu thời điểm lên ngôi của chủ nghĩa vô thần.

Thưa độc giả, trước khi đọc “Tự Thú’, tôi cũng đã có một dự cảm đúng khi cho rằng chủ nghĩa duy vật vô thần đã lên ngôi từ nửa đầu thế kỷ 19. Bây giờ tôi đã yên tâm rằng dự cảm đó hoàn toàn đúng. Nhưng có hai câu hỏi cần hỏi:

Một, tại sao cần phải quan tâm đến thời điểm lên ngôi của chủ nghĩa vô thần? Trả lời: Vì nó giúp chúng ta giải thích được nhiều trào lưu tư tưởng và hiện tượng xã hội diễn ra từ thế kỷ 19 cho tới nay. Chẳng hạn, tại sao Học thuyết Darwin thắng thế, tại sao Chủ nghĩa Toán học hình thức hoành hành trong thế kỷ 20,…

Hai, tại sao chưa cần đọc “Tự Thú” mà tôi đã đoán rằng chủ nghĩa vô thần lên ngôi từ nửa đầu thế kỷ 19? Về câu hỏi này, xin có đôi lời giải thích như sau.

Cách đây ngót một phần tư thế kỷ, tôi từng nghĩ rằng chủ nghĩa duy vật vô thần lên ngôi trong giai đoạn cuối thế kỷ 19. Ấy là vì năm 1992, khi đọc cuốn “Hành trình về Phương Đông” của Baird Spalding, do Nguyên Phong chuyển ngữ, tôi bị ấn tượng mạnh với sự kiện sau đây trong Phần Mở đầu: “Cách đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa Kỳ đã tuyên bố: Thượng Đế đã chết”.

Phản ứng tự nhiên hối thúc tôi tìm nguồn gốc của tuyên bó đó. Không khó gì để tìm thấy câu trả lời: đó là lời kêu gào của gã điên trong truyện ngụ ngôn “Gã Điên” (The Parable of the Madman) của Friedrich Nietzsche, xuất bản năm 1882. Độc giả nào muốn tìm hiểu kỹ truyện ngụ ngôn này, xin đọc “Nietzsche’s Madman / Gã điên của Nietzsche” trên PVHg’s Home ngày 27/11/2014. Câu chuyện về “Gã điên” cho thấy Thượng Đế đã bị hạ bệ ít nhất từ cuối thế kỷ 19. Trong một thời gian dài, tôi đinh ninh như thế.

Nhưng khi tìm hiểu Học thuyết Darwin, tôi bắt đầu thay đổi nhận thức – tôi ngờ rằng chủ nghĩa duy vật vô thần có lẽ đã ra đời sớm hơn, ít nhất là trước năm 1859, khi Charles Darwin cho ra mắt cuốn “Về Nguồn gốc các loài” (On the Origin of Species). Tại sao tôi suy đoán như vậy? Ấy là vì:

Học thuyết Darwin là một học thuyết hoàn toàn tưởng tượng, không có cơ sở thực tế và không có chứng minh khoa học thuyết phục. Ấy thế mà nó lại giành được thắng lợi trên diễn đàn học thuật thế kỷ 19 để trở thành một học thuyết chính thống trong sinh học cho tới tận ngày nay. Cái gì giúp cho một lý thuyết phi khoa học thắng thế trong khoa học?

Tôi cho rằng nó thắng thế không phải vì sự thuyết phục về mặt khoa học (thực tế nó bị rất nhiều người chống đối ngay từ đầu), nhưng nó đã giành được sự ủng hộ của trào lưu duy vật vô thần đang dấy lên mạnh mẽ trong giới khoa học đương thời. Còn gì hấp dẫn các nhà khoa học vô thần hơn việc giải thích mọi bí mật của sự sống mà không cần đến Thượng Đế? Từ đó suy ra rằng chủ nghĩa vô thần phải có chỗ đứng khá vững chắc trong khoa học trước khi Darwin công bố học thuyết của ông, tức là trong nửa đầu thế kỷ 19.

Nay đọc “Tự Thú” của Tolstoy, tôi thấy suy đoán của tôi đúng: “Thượng Đế đã chết” từ năm 1838, như anh chàng Volodin’ka M trong “Tự Thú” của Tolstoy đã loan báo, thay vì phải đợi đến tận năm 1882, khi Nietzsche cho ra mắt tác phẩm “Gã Điên”.

1 copyLoan báo của anh chàng Volodin’ka M có ý nghĩa rất quan trọng. Quan trọng đến nỗi Lev Tolstoy phải đưa sự kiện này vào “Tự Thú” ngay từ Chương I, bởi vì đó chính là lý do sâu xa dẫn tới cuộc khủng hoảng Đức tin của ông. Đó là sự loan báo về một xu thế mới của thời đại: xu thế hạ bệ Thượng Đế và tôn vinh chủ nghĩa vô thần. Điều đó có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành viên xã hội, đặc biệt là giới trẻ đương thời, mà Tolstoy là một. Ảnh hưởng này rất rõ, như Tolstoy đã kể:

  • Từ tuổi 16, tôi đã bỏ cầu nguyện, bỏ đi nhà thờ và bỏ ăn kiêng.

Nói đơn giản và dễ hiểu, Tolstoy đã bỏ Đạo từ năm 16 tuổi. Giả sử ông không bỏ đạo, liệu ông có rơi vào tình trạng khủng hoảng đức tin không? Không thể đưa ra giả thiết đó, vì con người rất khó có thể tách rời xã hội, con người dù giỏi đến mấy, độc lập tính cao đến mấy, cũng khó có thể không chịu ảnh hưởng của thời đại mình sống. Bản thân việc ông bỏ Đạo đã nói lên rất rõ rằng ông là sản phẩm của thời đại của ông, là sản phẩm của xu thế vô thần đang dấy lên mạnh mẽ lúc đó, thậm chí của xu thế suy đồi đạo lý như ông mô tả sau đây:

  • Tôi thì còn trẻ, tôi có những đam mê, và tôi cô độc, hoàn toàn cô độc, bất cứ khi nào tôi tìm kiếm cái gì (là) tốt lành. Cứ mỗi lần tôi cố biểu lộ những mong ước chân thành tâm huyết nhất của tôi – mong ước trở nên tốt lành về mặt đạo đức – thì tôi gặp phải sự khinh miệt, sự chế giễu; và ngay khi tôi buông mình vào những đam mê thấp hèn, tôi được ngợi khen và cổ vũ. Tham vọng, lòng yêu quyền lực, quyền lợi cá nhân, sự dâm đãng, tính kiêu ngạo, sự giận dữ, sự trả thù – tất cả mọi thứ này thì rất được nể trọng.

Có lẽ không cần bình luận thêm về sự suy đồi đạo lý này. Tolstoy mô tả quá đầy đủ rồi. Nhưng đó là sự mô tả môi trường xã hội xung quanh ông, còn bản thân ông thì sao? Ông tự thú:

  • Tôi không thể nào hồi tưởng lại những năm tháng này mà không có niềm kinh hãi, sự ghê tởm, và nỗi đau xé lòng. Tôi giết người trong chiến tranh, thách đấu súng với mục đích giết chết đối thủ, và thua bạc; tôi đã phung phí những thành quả lao động của những nông dân và rồi ngược đãi họ; tôi đã từng là một kẻ thông dâm và một kẻ lừa đảo. Nói dối, trộm cắp, bừa bãi và lang chạ đủ kiểu, rượu chè, bạo động, sát nhân – không có tội ác nào mà tôi đã không phạm phải; mặc dù thế, tôi được ca ngợi, và những đồng nghiệp của tôi đã và vẫn đang thực sự xem tôi là một người tương đối có đạo đức.

Xin thú thực là tôi vẫn không tin Tolstoy đã có thể có những giai đoạn sống tầm thường và tội lỗi như thế. Nó chẳng xứng hợp tí nào với hình ảnh về ông mà tôi từng ấn tượng sau khi đọc sách của ông, như “Chiến tranh và Hòa bình”,… Thật quá sức tưởng tượng. Nhưng nếu những lời tự thú nói trên là chính xác, thì phải nói Tolstoy là người cực kỳ dũng cảm, và thật đáng kính vì sự dũng cảm đó! Con chiên xưng tội với Cha Đạo chắc cũng không dũng cảm nói về tội lỗi của mình như ông. Vậy Tolstoy tự thú như thế là một hành động xuất phát từ truyền thống tôn giáo vốn có ở ông, mặc dù ông đã từ bỏ, hay từ bản chất thiện lương của ông? Dù lý giải thế nào đi chăng nữa thì cũng phải thừa nhận rằng Thượng Đế thực ra vẫn ở trong con người ông, và chính Thượng Đế ấy đã xung đột với tất cả những giá trị mà chủ nghĩa vô thần tôn vinh. Thượng Đế ấy xung đột với tất cả những thắng lợi mà ông đã giành được trong đời. Ông viết:

  • Tôi sợ cuộc sống, tôi vùng vẫy để loại bỏ nó, và tuy vậy, tôi vẫn hy vọng về một cái gì đó từ nó. Và điều này đang xảy ra cho tôi vào một thời điểm mà, từ mọi dấu chỉ, lẽ ra tôi nên được xem là một người hoàn toàn hạnh phúc; sự việc này xảy ra khi tôi chưa đầy 50 tuổi. Tôi có một người vợ tốt, nàng yêu tôi và tôi tha thiết yêu nàng, những đứa con xinh xắn và một bất động sản lớn đang phát triển và bành trướng mà tôi khỏi cần có nỗ lực nào. Hơn bao giờ cả, tôi được kính nể bởi bạn hữu và người quen, được ca ngợi bởi những người lạ, và tôi có thể tự đòi hỏi một danh tiếng nào đó mà thực sự không tự lừa dối mình. Hơn nữa, tôi không bệnh hoạn về thể xác và tinh thần; trái lại, tôi được hưởng một khí lực mạnh mẽ về cả thể xác lẫn tinh thần, mà tôi hiếm khi gặp được trong số những người cùng lứa tuổi với tôi. Về mặt thể lực, tôi có thể theo kịp những nông dân làm việc trên cánh đồng; về mặt tâm thần, tôi có thể làm việc 8 – 10 tiếng đồng hồ liên tiếp mà không phải chịu bất cứ hậu quả nào từ sự căng thẳng đó. Và trong cái hiện tình như thế, tôi đã đi tới một điểm mà tại đó tôi không thể sống; và cho dù tôi không sợ hãi cái chết, tôi đã phải sử dụng những mưu mẹo chống lại chính mình để giữ cho mình khỏi tự vẫn.

Sự khủng hoảng trong tư tưởng của Tolstoy phải nói là đã đạt tới mức độ quá quắt và kỳ quặc, đến nỗi ngay cả tình cảm yêu thương trong gia đình cũng không còn là cái có ý nghĩa nữa, hoặc sáng tạo nghệ thuật cũng chỉ còn là một trò chơi trang trí, chẳng có nhiều ý nghĩa như người ta huyễn hoặc. Đây, ông đặt câu hỏi về gia đình:

  • Tại sao tôi nên thương yêu họ ? Tại sao quan tâm tới họ, nuôi nấng họ, và chăm nom họ ? Hãy để cho họ có thể chìm vào trong nỗi tuyệt vọng, cái đang ăn mòn tôi, hay cứ để họ tiếp tục sống với sự ngu xuẩn?

Nếu không biết đó là lời “Tự Thú” của Tolstoy, mà tưởng ai đó đang nói như thế, tôi sẽ nhắc người đó rằng: Ông ơi, ông điên rồi, tình yêu thương trong gia đình là lẽ tự nhiên mà Tạo Hóa đã bầy đặt ra từ thủa khai sinh loài người rồi. Con vật còn biết yêu thương nhau huống chi con người. Vậy cớ sao ông thắc mắc? Ông muốn chất vấn Tạo Hóa ư? Ông điên rồi (thực tế là trong “Tự Thú”, Tolstoy cũng coi những khủng hoảng của mình đã đạt tới sự điên rồ).

Hoặc nếu tưởng những lời thú nhận của Tolstoy nói trên không phải của Tolstoy, mà xuất phát từ cửa miệng của một Kitô hữu nào đó, tôi cũng sẽ chất vấn: Này bạn, bạn là con của Chúa mà bạn không hiểu điều cốt lõi của Đạo là tình yêu thương ư? Chúa Jesus dạy: “Này các con, Cha ta yêu thương ta, nên ta yêu thương các con”, và “Ta yêu thương các con, vậy các con phải yêu thương lẫn nhau”. Một Kitô hữu mà không hiểu điều đó ư? Một Kitô hữu mà lại đặt câu hỏi thắc mắc tại sao tôi phải yêu thương gia đình của tôi thì còn gì là Kitô hữu nữa? Nhưng tôi sẽ ngừng chất vấn ngay, nếu biết rằng người Kitô hữu này đã bỏ Đạo. Tiếc thay, người Kitô hữu ấy lại chính là Lev Tolstoy, một đại văn hào được cả thế giới ngưỡng mộ.

Có cách nào lý giải cơn khủng hoảng của Tolstoy một cách dễ hiểu hơn không? Theo tôi, câu trả lời nằm trong truyện ngụ ngôn “Gã Điên” của Nietzsche. Đây là một sự liên tưởng khá bất ngờ, nẩy sinh trong đầu tôi ngay trong lúc tôi đang viết những dòng này, và tôi cảm thấy hợp lý.

Như tôi đã trình bầy trong bài viết “Gã Điên của Nietzsche”, rằng thiên hạ đã hiểu lầm Nietzsche, gán cho ông cái tội phổ biến tư tưởng hạ bệ Thượng Đế qua lời tuyên bố “Thượng Đế đã chết”. Không, không phải như thế. Nietzsche đặt câu nói đó vào cửa miệng gã điên, để cho gã điên giữa ban ngày cầm đèn chạy ra giữa chợ tìm Thượng Đế, rồi kết luận “Thượng Đế đã chết”, trước sự cười cợt chế nhạo của đám đông vây xung quanh. Thực ra gã điên muốn cảnh báo nhân loại rằng Thượng Đế đã chết, và điều đó tạo ra một khoảng trống lớn về đạo lý trong xã hội, vì trong mấy ngàn năm trước đó, Thượng Đế là nền tảng của Đức tin, là giường cột giữ cho xã hội cân bằng trong vòng đạo lý, nay Thượng Đế đã chết mà chưa có hoặc không có bất kỳ một cái gì có thể thay thế. Điều đó thật đáng lo ngại. Đó chính là lời cảnh báo của Nietzsche, vì thế truyện của ông mới được gọi là truyện ngụ ngôn. Nhưng đúng như ông mô tả, đám đông đứng xung quanh cười cợt chế nhạo gã điên, đám đông vô minh ấy không hiểu rằng gã điên đã báo động cho họ nguy cơ về một tương lai hỗn loạn bởi nền tảng đạo lý đã bị hủy hoại. Đám đông vô minh ấy không nhận ra rằng gã điên chính là một kẻ tỉnh táo, và chính họ là một lũ điên. Từ “Gã Điên” đến nay, đã hơn 130 năm rồi, vậy mà đám đông vẫn không hiểu lời cảnh báo của Nietzsche.

Nay đọc “Tự Thú” của Tolstoy, tôi thấy hóa ra ông chính là nạn nhân của những gì mà Nietzsche cảnh báo. Sự kiện Volodin’ka loan báo trong “Tự Thú” cũng có nội dung y như lời của gã điên của Nietzsche kêu la ngoài chợ. Loan báo ấy đẩy Tolstoy vào một khoảng trống tư tưởng, khoảng trống đạo lý, khoảng trống Đức tin, khoảng trống về ý nghĩa sự sống. Nhưng Tolstoy không thuộc loại người trong đám đông đứng vây quanh gã điên của Nietzsche. Ông ý thức được khoảng trống ấy. Ông sợ hãi khoảng trống đó. Ông rơi vào khủng hoảng…

Còn quá nhiều điều để nói từ cuốn “Tự Thú” này, nhưng nếu tham lam trình bầy hết ra đây thì e rằng tôi sẽ phải trích dẫn hầu như toàn bộ tác phẩm. Điều đó là bất khả, vì thế tôi đành phải chọn một cách nói chuyện mà tôi chưa từng áp dụng, ấy là “để đói” câu chuyện – bỏ dở câu chuyện ngang chừng, để độc giả cảm thấy “đói”, muốn biết rõ hơn về “Tự Thú”, và do đó sẽ tự tìm đọc tác phẩm này.

Nhưng có một ý quan trọng, một ý quyết định cho bài viết hôm nay, không thể “để đói” được. Đó là câu hỏi sau đây: Rốt cuộc, Tolstoy có tự vẫn không? Cuộc khủng hoảng Đức tin của ông có chấm dứt không? Ông có trở lại với Đức tin nguyên sơ của ông không?

Độc giả có thể tự tìm câu trả lời trong “Tự Thú”. Còn tôi, tôi chỉ làm một công việc rất đơn giản, ấy là trích dẫn những câu nói của ông mà tôi cho rằng có thể thay cho câu trả lời cho những câu hỏi nói trên. Đây, những câu trong “Tự Thú” mà tôi thấy có ý nghĩa nhất:

  • Tôi nhớ rằng, tôi đã sống chỉ khi nào tôi tin vào Thượng đế. Rồi, như bây giờ, tôi nói với chính mình, “Chừng nào tôi biết Thượng đế, tôi sống; khi tôi quên, hay khi tôi không tin vào Ngài, tôi chết.” Những cái chết và những hồi sinh này là gì ? Thật rõ là, tôi không sống bất cứ khi nào tôi mất đức tin vào sự hiện hữu của Thượng đế, và có lẽ tôi đã tự vẫn từ lâu, nếu tôi đã không có một niềm hy vọng mơ hồ về việc sẽ tìm thấy Thượng đế. Tôi chỉ thực sự sống bất cứ khi nào tôi ý thức về Ngài và tìm kiếm Ngài. “Vậy thì, tôi tìm kiếm cái gì?” một giọng nói vang lên trong tôi. “Ngài thì ở kia, và nếu không có Ngài, thì không thể có sự sống.” Biết Thượng đế và sống dẫn tới một và cùng một điều. Thượng đế là sự sống.
  • Hãy sống, tìm kiếm Thượng đế, bởi vì không thể có sự sống mà không có Thượng đế.
  • Trong bản chất, tôi trở lại với những điều đầu tiên, với những điều của tuổi thơ và tuổi trẻ. Tôi trở lại với đức tin vào cái ý chí đó – cái ý chí đã cho tôi chào đời và yêu cầu một cái gì đó ở tôi; tôi trở lại với cái xác tín rằng, mục đích duy nhất và quan trọng nhất trong đời tôi là trở nên tốt hơn, (là) sống theo cái ý chí này.
  • Tóm lại, tôi trở lại với một niềm tin vào Thượng đế, vào sự toàn thiện về đạo đức, và tin vào một truyền thống mà đã truyền dần ý nghĩa vào cho cuộc sống. Cái khác biệt duy nhất là, trước đây tôi đã một lần chấp nhận tất cả những cái này trên bình diện vô thức, trong khi bây giờ tôi biết, một cách hữu thức, rằng tôi không thể sống thiếu nó.
  • Cái bờ là Thượng đế, dòng nước là truyền thống, và những mái chèo là cái ý chí tự do đã được ban cho tôi để chèo được tới bờ, nơi mà tôi sẽ được kết hợp với Thượng đế. Cái lực của sự sống được hồi sinh bên trong tôi như thế, và tôi bắt đầu sống lại một lần nữa.

Phúc thay cho Lev Tolstoy, sau những cơn vật vã của lý trí, nhiều lúc tưởng như lý trí của ông sẽ hủy diệt Đức tin, ông đã phục sinh về linh hồn, ông đã trở về với Đức tin thời thơ ấu. Chỉ khác rằng Đức tin thời thơ ấu của ông có được bằng vô thức, còn bây giờ, bằng ý thức. Đó chính là sự hòa hợp kỳ diệu của lý trí với Đức tin.

Xin nói thêm rằng Tolstoy, trong cuộc khủng hoảng tìm kiếm Đức tin, đã khám phá ra rằng Đức tin chất phác của người nông dân hóa ra lại là một Đức tin thuần khiết quý giá, bởi nó giúp cho con người tiếp cận trực tiếp với Thượng Đế mà không cần đến lý trí phức tạp. Tâm trạng này rất giống Louis Pasteur. Thật vậy, Pasteur cũng từng nói rằng ông ao ước có được Đức tin của người nông dân Breton. Hóa ra những bộ não xuất sắc như Pasteur và Tolstoy đều nhận ra rằng Đức tin chân thành và hồn nhiên chất phác là Đức tin đẹp nhất, bởi nó không bị lý trí làm cho rối loạn. Viết đến đây tôi nhớ đến lời Chúa Jesus nói với các môn đệ: “Ta bảo thật anh em, nếu anh em không biến đổi nên như các trẻ nhỏ, anh em sẽ không được vào Nước Trời” (Matthew 18:3).

2016.03.25 (4)Hình bên: Thánh lễ tại Nhà thờ Cabramatta, Sydney, Thứ Sáu 25/03/2016

Hôm nay là Thứ Sáu Tuần Thánh 25/03/2016, tôi vừa từ Nhà thờ trở về. Hình ảnh Chúa Jesus bị đóng đanh trên cây thập giá vẫn còn in đậm trong trí não tôi. “Ba ngày sau Chúa sống lại như lời Thánh Kinh…”. Chủ nhật này, 27/03/2016 là lễ Phục Sinh. Tôi vừa đi vừa lẩm nhẩm lời Chúa: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Đại văn hào Lev Tolstoy là người vô cùng may mắn, bởi cái quý giá nhất mà ông đã  đánh mất, cuối cùng đã tìm lại được: ĐỨC TIN!

PVHg, Sydney 25/03/2016

Advertisement

25 thoughts on “Faith and Reason / Đức tin và Lý trí

  1. Chào chú Hưng, rất cám ơn chú vì những bài viết hay có nội dung sâu rộng trong nhiều lĩnh vực. Cháu lần đầu comment và cháu muốn nói rằng hiện tại cháu vẫn thuộc chủ nghĩa vô thần, và không tin vào Đức tin ạ. Cháu cám ơn chú. Comment trên chỉ duy nhất thể hiện quan điểm vào tôn giáo cá nhân của cháu. Kính chúc chú sức khỏe và chờ đợi nhiều bài viết mới của chú 🙂

    Thích

  2. Quả đúng như Nietzsche tuyên bố: Đức tin là không muốn biết sự thât !
    Tôi thách thức bạn tranh luận với tôi về tín lý và niềm tin của bạn
    bằng email một cách xây dựng, thành thật và trí thức.

    Tôi hi vọng bạn can đảm phúc đáp qua email của tôi.

    Trân trọng

    ttn

    Thích

    • Bạn Trần Thế Nhân thân mến,
      1/ Vấn đề Đức tin không thuộc phạm trù tranh luận, vì Đức tin dựa trên Niềm tin, thay vì dựa trên Lý Trí, Lý Lẽ.
      2/ Sự khác biệt ý kiến là chuyện bình thường. Nhưng mọi trao đổi phải dựa trên nguyên tắc đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau. Những ý kiến thiếu tôn trọng lẫn nhau hoặc có thể gây mất đoàn kết sẽ không thể đăng. Mong bạn thông cảm.
      PVHg

      Thích

  3. Cám ơn bạn đã phúc đáp. Xin lỗi bạn nếu tôi có lời lẽ kém tôn trọng (cũng chỉ ý kiến không xuất hiện).

    Bạn đang dùng lời lẽ và “lập luận” để “chứng minh” và “thuyết phục” độc gỉa thì không thể khẳng định
    là “đức tin không thuộc phạm trù tranh luận.”; vả lại, nếu đức tin không thể biện minh, thì đó là tin
    mù quáng vì không thể kiểm chứng. Bạn đồng ý ?

    Đồng ý rằng bất đồng thuận trong bất cứ vấn đề nào là chuyện bình thường. Nhưng đó không có nghĩa là
    ai cũng đúng hay hợp lý (reasonable, rational) cả.

    Sở dĩ tôi góp ý kiến với bạn vì tôi tin rằng chúng ta nhiều ít là những người hiểu biết, trí thức,
    phải có trách nhiệm giải thoát con người khỏi mọi mê tín, dị đoan, kể cả mọi huyền thoại tôn giáo không bám
    rể vào thực tại; tức là một hệ thống được mệnh danh là “a fact-based system” trên phương diện tri thức luận.

    Martin Luther từng tuyên bố rằng Chúa cần phải có trí thức (để viết lách, lập luận hệ thống tín lý) để duy trì
    tôn giáo.

    Điều đó hoàn đúng nhưng có lẽ Nietzsche nhận định sắc bén và thực tiển hơn: Chúa cần phải có “trí ngủ” để tôn giáo
    tồn hữu.

    Giữa bạn và tôi không có thù hận; trên tối thượng, chỉ là trao đổi
    trí thức mà thôi; ad hominem là phản trí thức.

    Chúc bạn vạn sự may mắn trong cuộc đời.

    ttn

    Đã thích bởi 1 người

    • Vì sự tôn trọng, tôi đăng ý kiến của bạn. Nhưng tôi không tán thành với ý kiến của bạn. Tuy nhiên, tôi xin nhắc lại, tôi không có ý định tranh luận, lập luận hoặc chứng minh gì cả. Vì như tôi nói, vấn đề Đức tin không phải là vấn đề có thể tranh luận, chứng minh, mà tùy thuộc ở cảm xúc, giống như nghe nhạc vậy. Bản nhạc tôi thích mà bạn không thích hoặc ngược lại, đó là chuyện bình thường, không cần và không nên tranh luận. Thế nhé, hãy tôn trọng cảm xúc của nhau. Cảm xúc của bạn không phù hợp với tôi, nên tôi nghĩ rằng những gì cần nói với nhau như thế là đủ. Nói thêm sẽ không có ý nghĩa gì cả. Nếu một ngày nào đó ta có thể nghe cùng một bản nhạc, lúc ấy chúng ta lại trao đổi và chía sẻ, bạn OK nhé. Còn bây giờ thì xin tạm ngừng, vì nói thêm cũng chỉ lặp lại những gì đã nói mà thôi. Bạn thông cảm nhé. PVHg

      Thích

    • Tôi sẽ bình luận trên bình diện tâm lý học.
      Khi người ta muốn tranh luận về đức tin thì xét trên tâm lý học nó rất dễ hiểu là họ muốn thay đổi đức tin của người khác, nghĩa là họ muốn người khác phải theo ý mình, suy nghĩ và cảm nhận giống như mình. Cái đó nói ở tầm thấp thì là ko tôn trọng tự do cá nhân của người khác, tầm cao thì đó là tâm lý bá quyền của các dân tộc phương Đông. Ở phương Tây hiện nay ta có bao giờ thấy ai tranh luận hay về đức tin đâu, đó là nền tảng tâm lý bình đẳng lành mạnh của họ
      Thật là dễ hiểu làm sao.

      Thích

  4. Cháu cảm ơn bác Phạm Việt Hưng rất nhiều, cháu đã đọc và xem các bài viết của bác trên đây. Các chủ đề về Tôn giáo, về ĐL Bất Toàn, về thuyết tiến hóa…Thực sự cháu hoàn toàn đồng ý với bác, cảm ơn bác đã trình bày những vấn đề vô cùng Phức tạp bằng ngôn ngữ dễ hiểu, nó giúP cháu và nhiều người khác được thông não và củng cố niềm tin của mình về…Đúng như bác nói, đức tin không nên tranh luận, bởi vì chân lí tối hậu thì kẻ biết không nói, và kẻ nói thì không biết. Đó là lí do mà những bậc giác ngộ như Thích ca mâu ni, Lão Tử, Plato, Chúa Jesu…thường không lậP văn tự, bởi vì các ngài biết bậc con cháu của chúng ta sẽ vướng vào bẫy lơ lửng của ngôn từ.Và qủa đúng như thế, con cháu các ngài đã lạm dụng và hiểu sai ý của các ngài, dẫn đến việc loạn hết cả lên, một rừng kinh, biển luật, đến việc có người đã Phải thốt lên Thượng đế đã chết. Chúng ta biết duy nhất một điều là chúng ta chẳng biết gì cả.

    Thích

    • Bạn whatisam thân mến,
      Tôi thực sự bất ngờ với ý kiến của bạn. Tôi không rõ bạn bao nhiêu tuổi, nhưng chắc còn trẻ. Tuy nhiên bạn có những tư tưởng sâu sắc vượt xa nhiều trí thức nửa mùa tư duy máy móc và cố chấp – những người đóng khung công thức rồi thấy ai phê phán cái công thức của mình thì dẫy nẩy lên. Thế mới biết trí khôn không phụ thuộc sách vở và lý luận, mà ở trực giác, đúng như Einstein nói: :Trực giác là thứ duy nhất thực sự có giá trị”. Cháu là người có trực giác nhạy lắm đấy. PVHg

      Thích

  5. Sau một quá trình nghiên cứu so sánh nhiều tôn giáo, nhiều dòng triết học, nhiều ngành khoa học… và thực tế cuộc sống, tôi có thể rút ra một số nhận định ban đầu như sau:

    1. Tồn tại một Đấng Tạo Hóa với nhiều danh xưng khác nhau trong các tôn giáo khác nhau như: Đấng Tối Cao, Bà Mẹ Tự Nhiên, Thượng Đế, Đức Chúa Trời, Đại Ngã, Thiên Chúa, God, Nhà thiết kế vĩ đại, Nhà sáng tạo vĩ đại, v.v…

    2. Thượng Đế (TĐ) tạo ra Vũ trụ và muôn loài, đặc biệt là Trái Đất và loài người với một mục đích nhất quán nào đó mà chúng ta phải có trách nhiệm tìm hiểu. Vấn đề về ý nghĩa cuộc sống cũng là một câu hỏi lớn đặt ra trước chúng ta mà cho đến nay vẫn chưa có một phương pháp tiếp cận giải quyết thỏa đáng. Khủng hoảng về “ý nghĩa cuộc sống” nếu có, sẽ là khủng hoảng lớn nhất mà mỗi người gặp phải dù là vô thức hay hữu thức.

    3. Mỗi cá nhân chúng ta không phải được sinh ra một cách ngẫu nhiên hoặc vô tình, mà là đã được trù tính trong một kịch bản vĩ đại của TĐ. TĐ trao cho mỗi người một sứ mệnh nhất định và TĐ cũng tạo mọi điều kiện để mỗi người hoàn thành sứ mệnh đó. Tuy nhiên TĐ cũng dành cho mỗi người có một khoảng “tự do ý chí” nào đó và mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về sự tự do ý chí đó.

    4. Dù lịch sử nhân loại có thăng trầm, nhưng chúng ta vẫn nên lạc quan khi nghĩ đến phác đồ tiến triển của nền văn minh nhân loại.

    Thích

  6. Kính gửi anh Hưng,

    Hôm nay là ngày Phục Sinh, trời Hà Nội lạnh nhẹ, khô ráo, có phảng phất chút sương mù. Sau tiết Xuân Phân thường như vậy. Trong khung cảnh này mà nghe nhạc của Vivaldi thì thật tuyệt. Tôi muốn chia sẻ với anh và các bạn độc giả của PVHg’s Home một tác phẩm nhẹ nhàng của Ông, đó là: Antonio Vivaldi Concerto for Lute in D major. Bản này nguyên thủy là viết cho đàn Lute, nhưng ngày nay được nhiều danh cầm Guitar chọn biểu diễn. Anh nên chọn danh cầm Guitar John Williams, chẳng hạn ở địa chỉ: Antonio Vivaldi Concierto en D mayor – John Williams.

    Về Vivaldi (1678-1741) thì chúng ta sẽ còn phải tiếp tục tôn vinh Ông nhiều trong những dịp tới. Tôi chỉ lưu ý anh một điều là những tác phẩm của Ông là thuộc giai đoạn Baroque, và Ông có ảnh hưởng rất lớn tới J. S. Bach vĩ đại.

    Chúc Anh một mùa Phục sinh an lành, vui vẻ.

    Thích

  7. Thật sự cháu đã từng có giai đoạn mất niềm tin vào Chúa như Lev Tolstoy và giờ đây niềm tin ấy một lần nữa đang trở lại mạnh mẽ trong cháu, cháu mong rằng đức tin của mình ngày càng vững vàng hơn nữa. Cám ơn những bài viết rất hay và ý nghĩa của bác!

    Thích

  8. Cám ơn bác Hưng rất nhiều, cháu là một giảng viên trẻ của một trường Đại học Kỹ thuật tại TPHCM, cháu vẫn thường nói với bạn bè cũng như học trò của cháu rằng: “Chân lý nằm ở trái tim, ở đâu có trái tim, ở đó là chân lý”. Rất cám ơn bác vì những loạt bài thú vị và đầy ý nghĩa nhưng rất dễ hiểu ạ.

    Thích

  9. Hôm rồi e chở thằng con lớp 6 đi học về, sẵn dịp “phô diễn kiến thức” với nó:
    Cha: Con người, sự vật trên Trái Đất từ đâu mà có?
    Con: Từ không khí, vi khuẩn, … hợp nên mà thành (nghe hợp lý Thuyết Tiến Hóa quá)
    Cha: Vậy không khí, vi khuẩn từ đâu mà có? (hỏi cho nó bí mà)
    Con: Chúng đến từ hành tinh xa xôi (chắc là xem phim viễn tưởng nhiều)
    Cha: Vậy trước đó, chúng ở đâu ra mà có trên hành tinh đó? (quyết hỏi cho bí)
    Con: …. im lặng (bí thiệt rồi)
    Cha: Vậy phải có một Đấng Chúa Trời, Đấng Sáng Tạo ra những thứ đó
    Con: (phản pháo liền) Vậy ai tạo Đấng Chúa Trời?
    …. đến lượt Cha bí…

    Đã thích bởi 1 người

    • Trả lời bạn Nghĩa,
      Vì Cha và Con đều không hiểu Đức Chúa Trời là gì cả. Đức Chúa Trời không nằm trong cái logic ngây thơ và ấu trĩ của con người. Nhưng trách Cha nhiều hơn, vì con trẻ ngây thơ ấu trĩ là điều tự nhiên. Người thông minh nhận ra Đức Chúa Trời bằng cảm giác và linh giác chứ không phải bằng lý trí, lý lẽ. Vì thế sự tin vào Đức Chúa Trời mới được gọi là ĐỨC TIN.
      Câu chuyện sau đây là một biến tấu trên câu chuyện của bạn:
      Con: Tại sao qua 2 điểm ta chỉ kẻ được một đường thằng?
      Cha: Đó là một Tiên đề. Đã là Tiên đề thì đừng hỏi tại sao.
      Con: Tiên đề là gì?
      Cha: Tiên đề là mệnh đề được thừa nhận. Ta tin mệnh đề ấy đúng.
      Con: Tại sao lại tin?
      Cha: Vì ta cảm thấy nó đúng.
      Con: Ô, thế hóa ra khoa học của cha cũng dựa trên niềm tin à?
      Cha: Tất nhiên rồi, phải có niềm tin ban đầu nào đó chứ.
      Con: Vậy tại sao cha lại phản đối những người vào tin Đức Chúa Trời?
      Cha: (bí…)

      Thế đây, lý lẽ bao giờ cũng bị giới hạn. Đừng bao giờ hy vọng tìm thấy chân lý đầu tiên và cuối cùng bằng lý lẽ, bạn nhé. Để tìm chân lý đầu tiên và cuối cùng, con người PHẢI HỌC LÀM NGƯỜI LỚN, TƯ DUY CẢM XÚC, TƯ DUY TRỰC GIÁC, TƯ DUY TRIẾT HỌC, TƯ DUY THẦN HỌC, TƯ DUY VƯỢT LÊN NHỮNG GÌ TẦM THƯỜNG NHƯ 2+3 =5. Vì thế Chúa Jesus mới nói PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN. PVHg

      Thích

    • Cậu bé con này lém lỉnh thật đấy! 🙂
      Không ai tạo ra Đức Chúa Trời cả vì Đức Chúa Trời là “thứ” duy nhất vô tận, giống như một đường thẳng vậy. Ngoài Đức Chúa Trời ra thì tất cả những “thứ” còn lại (vật chất, vũ trụ, con người, kể cả thời gian) đều có điểm khởi đầu và kết thúc, như khái niệm đoạn thẳng vậy.
      Nếu ai theo Đạo thì có thể hiểu Đức Chúa Trời ở đây ý chỉ Đức Chúa Ba Ngôi (Đức Chúa Cha, Jesus và Đức Thánh Linh).
      Cơ mà giải thích thế này có vẻ hơi phức tạp cho cậu bé thì phải! :s

      Thích

  10. Lần đầu tiên cháu vào trang này, thấy nhiều bài chia sẻ rất hữu ích. Xin cảm ơn chú và nhân tiện chia sẻ chút thiển kiến với mọi người.

    Đức thánh John Paul II có viết Fides et Ratio nói về tương quan giữa đức tin và lý trí. Mở đầu thông điệp ngài ví von đức tin và lý trí giống như đôi cánh nâng tâm hồn con người lên chiêm ngắm chân lý.

    Cháu hiểu rằng Đạo Công giáo không quan niệm đức tin và lý trí mâu thuẫn với nhau, ngược lại, chúng cần tới nhau, bổ trợ cho nhau, soi sáng cho nhau theo đường xoáy trôn ốc. Cuộc tìm kiếm chân lý ấy chỉ có khởi điểm mà dường như không thể có điểm kết thúc với con người. Vì thế, thánh Augustin, một giáo phụ nổi tiếng với tác phẩm Tự Thú đã viết: tin để hiểu và hiểu để tin.
    Nói một cách nôm na, đức tin và lý trí giống như cặp âm dương song hành, trong dương có âm và trong âm có dương; hay giống như đàn ông với đàn bà, thế giới này không thể tồn tại nếu thiếu một bên.
    Bác học Albert Einstein cũng từng tuyên bố “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng”.

    Như thế, cả khoa học và tôn giáo cần có thái độ khiêm tốn lắng nghe học hỏi nhau, nếu không sẽ chẳng khác nào đám thầy bói xem voi.

    trân trọng

    Đình Chẩn

    Thích

  11. Đức Tin không tự nhiên mà có. Ai từ bỏ Tất Cả trong 1 khoảnh khắc, rồi quỳ gối xuống và chân thành, liên lỉ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa! Nếu quả thực Chúa có hiện hữu, xin Chúa cho con được thấy”. Chỉ thế thôi ạh. Vì Đức Tin là cánh cửa, ai muốn biết được có gì đó sau cánh cửa, thì chỉ còn cách bước qua cánh cửa, đừng chỉ đứng bên ngoài mà tranh luận, chẳng ích lợi gì cả.
    Chân thành cảm ơn Bác Hưng nhé! Bác lại cho ra đời 1 tuyệt phẩm. Chúc Bác Bình An trong Chúa Kitô Phục Sinh và sức khỏe.

    Thích

  12. Tôi đang đọc báo bên ZeroNews.us thì vô tình tìm đc bài viết này nên rất muốn viết vài dòng.
    Tôi không nghĩ bài này là tuyên truyền để mọi người nghe theo. Vì không dễ khi theo Đạo và nhận thức được Thiên Chúa là Cha. Nếu không có Chúa Thánh Thần soi sáng thì bạn không bao giờ hiểu đc đâu. Thiên Chúa nói cho bạn biết về Ngài từ trong tâm trí bạn. Ngoài ra không ai chinh phục được đâu. Bạn sẽ luôn thắc mắc về mình.
    Mẹ Maria hiện ra biết bao nhiêu lần (từ 18 – 20 lần). Mấy triệu người chứng kiến, khắp Châu Âu, Fatima, Lourdes, Japan …
    Chính phủ Thổ Nhĩ Ký xác nhận tàu Noah là sự thật,
    Khăn liệm Torino …
    Khoa Hoc không thể tạo ra hay chứng minh được.
    ….
    Phạm Việt Hưng, cảm ơn anh vì bài viết tuyệt vời!
    Chúa ở cùng anh

    Thích

  13. nếu như người con hoang đàng không ra đi( sai lầm).k lâm vào nạn đói thì anh ta không thấy bản thân mình bất toàn dường nào.
    nếu anh ta không gặp khó khăn cùng cực anh ta đã không nghĩ lại.
    và nếu anh ta k quay về anh ta sẽ không biết được cha của mình nhân hậu dường bao.
    ( người anh cả ở với cha lâu như thế mà k hề nhận ra tình yêu vô bờ của cha mình)
    có thể tất cả chỉ là sự tình cờ.nhưng nếu bạn suy xét lại sẽ thấy rằng Chúa an bài mọi sự một cách thật khôn ngoan lạ lùng.
    nhưng đối với nhiều người thì đó là sự tình cờ!
    1 ngày nào đó bạn sẽ sai lầm, có thể sẽ khủng hoảng đức tin.nhưng nếu bạn hồi tâm suy xét lại bạn sẽ thấy chúa yêu ta như thế nào va rồi từ đây đức tin bạn sẽ mạnh mẽ hơn.
    chúa luôn yêu ta.vì thế ngài sẽ giúp ta .điều ta cần làm đơn giản chỉ là mở rộng lòng mình ra…

    Thích

  14. Pingback: LEV TOLSTOY, một nhà tư tưởng vĩ đại – Kim Dung/Kỳ Duyên

  15. Pingback: LEV TOLSTOY, MỘT NHÀ TƯ TƯỞNG VĨ ĐẠI | CÓP NHẶT

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s