Although evolution has been 188 years old since Darwin drew the Tree of Life, it is still now only a hypothesis that cannot be believed by truth lovers. Why? Because it has no experimental proofs, no induction, no laws, but only two imaginary mechanisms: natural selection and random mutation.
Mặc dù đã có 188 năm tuổi kể từ ngày Darwin vẽ ra Cây sự sống, Thuyết tiến hóa vẫn không sao chiếm được niềm tin của những người yêu sự thật. Tại sao thế? Vì nó không có thí nghiệm chứng minh, không quy nạp, không định luật, chỉ có hai cơ chế tưởng tượng: chọn lọc tự nhiên và đột biến ngẫu nhiên.
Đó là điều đã được chứng minh trong bài báo “Cơ chế tưởng tượng của thuyết tiến hóa” (Imaginary mechanisms of Evolution)[1] của A.O. (Người tìm kiếm sự thật). Trang PVHg’s Home xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Cơ chế tưởng tưởng của thuyết tiến hóa
Mọi đột biến xảy ra ở con người đều dẫn đến dị tật về thể chất, gây ra các bệnh tật như bệnh Mông Cổ, hội chứng Down, bệnh bạch tạng, bệnh lùn hoặc ung thư.
Học thuyết Tân-Darwin, được coi là thuyết tiến hóa “chính thống” ngày nay, lập luận rằng sự sống đã tiến hóa thông qua hai cơ chế tự nhiên: “chọn lọc tự nhiên” và “đột biến”. Khẳng định cơ bản của học thuyết này như sau: Chọn lọc tự nhiên và đột biến là hai cơ chế bổ sung cho nhau. Nguồn gốc của các biến đổi tiến hóa là các đột biến ngẫu nhiên diễn ra trong cấu trúc di truyền của sinh vật. Các đặc điểm do đột biến mang lại được chọn lọc bởi cơ chế chọn lọc tự nhiên và do đó các sinh vật tiến hóa.
Khi chúng ta nghiên cứu sâu hơn về học thuyết này, chúng ta thấy không hề có cơ chế tiến hóa nào như vậy, bởi vì cả chọn lọc tự nhiên lẫn đột biến đều không giúp ích gì cho tuyên bố của các nhà tiến hóa rằng các loài khác nhau đã tiến hóa từ loài này đến loài khác.
Chọn lọc tự nhiên
Là một quá trình tự nhiên, khái niệm chọn lọc tự nhiên đã trở nên quen thuộc với các nhà sinh học trước Darwin – người đã định nghĩa nó như là “cơ chế giữ cho các loài không thay đổi mà không bị làm hỏng”. Darwin là người đầu tiên đưa ra khẳng định rằng quá trình này có sức mạnh tiến hóa và sau đó ông đã xây dựng toàn bộ lý thuyết của mình trên nền tảng của khẳng định này. Cách ông đặt tên cho cuốn sách của mình cho thấy chọn lọc tự nhiên là nền tảng lý thuyết của Darwin: “Nguồn gốc các loài, thông qua Chọn lọc tự nhiên”.
Tuy nhiên, kể từ thời Darwin đến nay, không có một bằng chứng nào được đưa ra để chứng minh rằng chọn lọc tự nhiên khiến sinh vật tiến hóa. Colin Patterson, nhà cổ sinh học cao cấp của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Anh, cũng là một nhà tiến hóa học nổi tiếng, nhấn mạnh rằng chọn lọc tự nhiên chưa bao giờ được quan sát thấy có khả năng khiến mọi thứ tiến hóa:
“Không ai từng tạo ra một loài bằng cơ chế chọn lọc tự nhiên. Không ai từng đến gần nó và hầu hết các lập luận hiện tại trong học thuyết Tân-Darwin đều xoay quanh câu hỏi này”.
Chọn lọc tự nhiên cho rằng những sinh vật sống phù hợp hơn với điều kiện tự nhiên của môi trường sống của chúng sẽ thắng thế bằng cách sinh ra những đứa con có thể sống sót, trong khi những sinh vật không phù hợp sẽ biến mất. Ví dụ, trong một đàn hươu dưới sự đe dọa của động vật hoang dã, những con có thể chạy nhanh hơn sẽ sống sót. Điều đó đúng. Nhưng dù quá trình này kéo dài bao lâu, nó cũng sẽ không biến những con hươu đó thành một loài khác. Hươu sẽ luôn luôn là hươu.
Khi xem xét một vài trường hợp mà các nhà tiến hóa nêu lên như những ví dụ quan sát được về chọn lọc tự nhiên, chúng ta sẽ thấy đó chỉ là một nỗ lực đơn giản để lừa gạt.
“Bằng chứng hắc tố của bướm đêm công nghiệp”
Năm 1986, Douglas Futuyma xuất bản cuốn sách The Biology of Evolution (Sinh học tiến hóa), được xem như một trong những lập luận giải thích sự tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên một cách rõ ràng nhất. Ví dụ nổi tiếng nhất của tác giả về chủ đề này là màu sắc của quần thể bướm đêm, dường như đã biến đổi theo hướng sẫm màu hơn trong cuộc Cách mạng công nghiệp ở Anh.
Theo lời kể, vào khoảng thời gian đầu của cuộc Cách mạng Công nghiệp ở Anh, màu vỏ cây quanh Manchester khá nhạt. Vì lý do này, những con bướm đêm màu sẫm đậu trên những cái cây đó có thể dễ dàng bị các loài chim ăn chúng phát hiện và do đó chúng có rất ít cơ hội sống sót. Năm mươi năm sau, do ô nhiễm, vỏ cây đã sẫm màu hơn, và lần này những con bướm đêm màu sáng trở thành loài bị săn bắt nhiều nhất. Kết quả là, số lượng bướm đêm màu sáng giảm trong khi số lượng bướm đêm màu tối tăng lên vì những con bướm đêm màu tối không dễ bị phát hiện. Các nhà tiến hóa sử dụng điều này như một bằng chứng tuyệt vời cho lý thuyết của họ. Họ tìm cách tạo ra một ấn tượng rằng bướm đêm màu sáng đã “tiến hóa” thành bướm đêm màu tối.
Tuy nhiên, cần phải thấy rõ rằng thí dụ này không thể dùng làm bằng chứng cho thuyết tiến hóa, vì ở đây sự chọn lọc tự nhiên không hề tạo ra một loài mới chưa từng tồn tại trước đây. Những con bướm đêm màu tối đã tồn tại trong quần thể bướm đêm trước Cách mạng Công nghiệp. Chỉ có tỷ lệ tương đối của các giống bướm đêm hiện có trong quần thể là thay đổi. Những con bướm đêm này không có một đặc điểm hoặc cơ quan mới nào cả – yếu tố cần thiết để “hình thành loài mới”. Để bướm đêm biến thành một loài khác, chẳng hạn như một loài chim, thì phải có những bổ sung mới cho bộ gene. Nghĩa là, một chương trình di truyền hoàn toàn riêng biệt sẽ phải được cài đặt vào loài bướm để bao gồm thông tin về các đặc điểm vật lý của loài chim.
Tóm lại, chọn lọc tự nhiên không có khả năng bổ sung thêm một cơ quan mới vào một sinh vật sống, hoặc loại bỏ một cơ quan, hoặc thay đổi sinh vật thành một loài khác – điều này hoàn toàn trái ngược với hình ảnh tiến hóa mà các nhà tiến hóa gợi lên. Bằng chứng “vĩ đại nhất” về chọn lọc tự nhiên được nêu lên kể từ Darwin chẳng có gì hơn “bệnh hắc tố công nghiệp” của loài bướm đêm ở Anh.
Chọn lọc tự nhiên có thể giải thích được sự phức tạp không?
Cơ chế chọn lọc tự nhiên chẳng giúp ích gì cho thuyết tiến hóa, bởi vì cơ chế này không bao giờ có thể làm tăng hoặc cải thiện thông tin di truyền của một loài. Do đó nó không thể biến đổi một loài thành loài khác, thí dụ như biến một con sao biển thành một con cá, một con cá thành một con ếch, một con ếch thành một con cá sấu, hoặc một con cá sấu thành một con chim. Người bảo vệ lớn nhất cho lý thuyết “punctuated equilibrium” (cân bằng ngắt quãng) là Stephen Jay Gould mô tả sự bế tắc này của chọn lọc tự nhiên như sau:
“Bản chất của học thuyết Darwin nằm trong một cụm từ duy nhất: chọn lọc tự nhiên là lực sáng tạo của sự thay đổi tiến hóa. Không ai phủ nhận rằng chọn lọc tự nhiên sẽ đóng vai trò tiêu cực trong việc loại bỏ những thứ không phù hợp. Các học thuyết của Darwin yêu cầu chọn lọc tự nhiên phải tạo ra sự phù hợp”.
Một phương pháp gây hiểu lầm khác mà những người theo thuyết tiến hóa sử dụng về vấn đề chọn lọc tự nhiên là nỗ lực trình bày cơ chế này như một nhà thiết kế có ý thức. Tuy nhiên, chọn lọc tự nhiên không có ý thức. Nó không có ý chí có thể quyết định điều gì là tốt và điều gì là xấu đối với các sinh vật sống. Do đó, chọn lọc tự nhiên không thể giải thích các hệ thống và cơ quan sinh học có đặc điểm là “sự phức tạp không thể giản lược”. Các hệ thống và cơ quan này bao gồm sự hợp tác của rất nhiều bộ phận và chúng sẽ vô dụng nếu thiếu hoặc khiếm khuyết một trong những bộ phận này. (Ví dụ, mắt người không hoạt động trừ khi nó tồn tại với tất cả các chi tiết của nó). Do đó, ý chí đưa tất cả các bộ phận này lại với nhau phải có khả năng hình dung trước tương lai và hướng trực tiếp đến lợi ích sẽ đạt được ở giai đoạn cuối cùng. Vì cơ chế tự nhiên không có ý thức hoặc ý chí, nên nó không thể làm như vậy. Sự thật này cũng phá hủy nền tảng của thuyết tiến hóa, và cũng khiến Darwin lo lắng: “Nếu có thể chứng minh rằng bất kỳ cơ quan phức tạp nào tồn tại, không thể được hình thành bởi nhiều sửa đổi nhỏ liên tiếp, thì lý thuyết của tôi sẽ hoàn toàn sụp đổ”.
Chọn lọc tự nhiên chỉ chọn lọc ra những cá thể dị dạng, yếu hoặc không phù hợp của một loài. Nó không thể tạo ra loài mới, thông tin di truyền mới hoặc các cơ quan mới. Nghĩa là, nó không thể khiến bất cứ thứ gì tiến hóa. Darwin chấp nhận thực tế này bằng cách nói: “Chọn lọc tự nhiên không thể làm gì cho đến khi các biến thể thuận lợi có cơ hội xảy ra”. Đây là lý do tại sao chủ nghĩa tân Darwin phải nâng cao đột biến lên bên cạnh chọn lọc tự nhiên như là “nguyên nhân của những thay đổi có lợi”. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy, đột biến chỉ có thể là “nguyên nhân của những thay đổi có hại”.
Đột biến
Đột biến được định nghĩa là sự đứt gãy hoặc thay thế diễn ra trong phân tử DNA, được tìm thấy trong nhân tế bào của một sinh vật sống và chứa tất cả thông tin di truyền. Những đứt gãy hoặc thay thế này là kết quả của các tác động bên ngoài như bức xạ hoặc tác động hóa học. Mỗi đột biến là một “tai nạn” và làm hỏng các nucleotide tạo nên DNA hoặc thay đổi vị trí của chúng. Hầu hết thời gian, chúng gây ra rất nhiều thiệt hại và biến đổi đến mức tế bào không thể sửa chữa chúng.
Đột biến, mà các nhà tiến hóa thường ẩn đằng sau, không phải là cây đũa thần biến đổi các sinh vật sống thành một dạng hoàn hảo và tiên tiến hơn. Tác động trực tiếp của đột biến là có hại. Những thay đổi do đột biến gây ra chỉ có thể giống như những thay đổi mà người dân ở Hiroshima, Nagasaki và Chernobyl đã trải qua: tức là cái chết, sự tàn tật và những điều kỳ quặc của thiên nhiên…
Lý do cho điều này rất đơn giản: DNA có cấu trúc rất phức tạp và những tác động ngẫu nhiên chỉ có thể gây hại cho cấu trúc này. BG Ranganathan phát biểu:
Đột biến là nhỏ, ngẫu nhiên và có hại. Chúng hiếm khi xảy ra và khả năng tốt nhất là chúng sẽ không gây ra hậu quả. Bốn đặc điểm của đột biến này ngụ ý rằng đột biến không thể dẫn đến sự phát triển tiến hóa. Một thay đổi ngẫu nhiên trong một sinh vật có thể không gây ra hậu quả hoặc có hại. Một thay đổi ngẫu nhiên trong một chiếc đồng hồ không thể cải thiện chiếc đồng hồ. Nó rất có thể làm hỏng chiếc đồng hồ hoặc may mắn nhất là không làm hỏng. Một trận động đất không cải thiện một thành phố, nó chỉ mang đến sự hủy diệt.
Không có gì ngạc nhiên khi cho đến nay vẫn chưa có ai quan sát thấy đột biến hữu ích nào. Tất cả các đột biến đều được chứng minh là có hại. Nhà sinh học tiến hóa Warren Weaver bình luận về báo cáo do Ủy ban về Tác động Di truyền của Bức xạ Nguyên tử biên soạn, được thành lập để điều tra các đột biến có thể có do vũ khí hạt nhân được sử dụng trong Thế chiến thứ hai gây ra:
“Nhiều người sẽ bối rối về tuyên bố rằng hầu như tất cả các gene đột biến đã biết đều có hại. Vì đột biến là một phần cần thiết của quá trình tiến hóa. Làm sao một hiệu ứng tốt – tiến hóa thành các dạng sống cao hơn – có thể xuất phát từ các đột biến mà hầu như tất cả đều có hại?”
Mọi nỗ lực “tạo ra đột biến hữu ích” đều dẫn đến thất bại. Trong nhiều thập kỷ, các nhà tiến hóa đã tiến hành nhiều thí nghiệm để tạo ra đột biến ở ruồi giấm vì loài côn trùng này sinh sản rất nhanh và do đó đột biến sẽ xuất hiện nhanh chóng. Nhiều thế hệ ruồi giấm này đã bị đột biến, nhưng không có đột biến hữu ích nào được quan sát thấy. Nhà di truyền học tiến hóa Gordon Taylor viết như sau:
“Trong hàng ngàn thí nghiệm nuôi ruồi được tiến hành trên khắp thế giới trong hơn năm mươi năm qua, người ta chưa bao giờ thấy một loài mới nào xuất hiện… hay thậm chí là một loại enzyme mới”.
Một nhà nghiên cứu khác, Michael Pitman, bình luận về sự thất bại của các thí nghiệm thực hiện trên ruồi giấm:
“Morgan, Goldschmidt, Muller và các nhà di truyền học khác đã đưa nhiều thế hệ ruồi giấm vào điều kiện khắc nghiệt của nhiệt độ, lạnh, sáng, tối và xử lý bằng hóa chất và bức xạ. Mọi loại đột biến, hầu như tất cả đều trung tính hoặc có hại, đã được tạo ra. Con người đã tạo ra sự tiến hóa? Không phải vậy: Rất ít quái vật của các nhà di truyền học có thể sống sót bên ngoài những chiếc bình mà chúng được nuôi. Trên thực tế, các con vật đột biến sẽ chết, trở nên vô sinh hoặc có xu hướng trở lại dạng hoang dã”.
Điều tương tự cũng đúng với con người. Tất cả các đột biến đã được quan sát thấy ở con người đều có kết quả có hại. Về vấn đề này, những người theo thuyết tiến hóa dựng lên một bức bình phong và cố gắng đưa ra ngay cả những ví dụ đột biến có hại như là “bằng chứng cho sự tiến hóa”. Tất cả các đột biến xảy ra ở con người đều dẫn đến dị tật về thể chất, trong các bệnh tật như bệnh Mông Cổ, hội chứng Down, bệnh bạch tạng, bệnh lùn hoặc ung thư. Những đột biến này được trình bày trong sách giáo khoa của những người theo thuyết tiến hóa như những ví dụ về “cơ chế tiến hóa đang hoạt động”. Không cần phải nói, một quá trình khiến con người bị tàn tật hoặc ốm yếu không thể là “một cơ chế tiến hóa” – vì tiến hóa được cho là phải tạo ra những dạng tốt hơn, phù hợp hơn để tồn tại.
Tóm lại, có ba lý do chính tại sao đột biến không thể được sử dụng để hỗ trợ cho các khẳng định của những người theo thuyết tiến hóa:
– Tác động trực tiếp của đột biến là có hại: Vì chúng xảy ra ngẫu nhiên, chúng hầu như luôn gây hại cho sinh vật sống trải qua chúng. Lý trí cho chúng ta biết rằng sự can thiệp vô thức vào một cấu trúc hoàn hảo và phức tạp sẽ không cải thiện cấu trúc đó mà làm suy yếu nó. Thật vậy, chưa từng quan sát thấy “đột biến hữu ích” nào.
– Đột biến không thêm thông tin mới vào DNA của sinh vật: Các phần tử tạo nên thông tin di truyền bị tách khỏi vị trí của chúng, bị phá hủy hoặc bị mang đến những nơi khác. Đột biến không thể khiến một sinh vật có được một cơ quan mới hoặc một đặc điểm mới. Chúng chỉ gây ra những bất thường như quái thai: một chân thò ra khỏi lưng hoặc một tai từ bụng, …
– Để một đột biến được truyền sang thế hệ sau, nó phải diễn ra trong các tế bào sinh sản của cơ thể: Một thay đổi ngẫu nhiên xảy ra trong một tế bào hoặc cơ quan ngẫu nhiên của cơ thể không thể được truyền sang thế hệ sau. Ví dụ, một con mắt người bị thay đổi do tác động của bức xạ hoặc các nguyên nhân khác sẽ không được truyền sang các thế hệ sau.
– Tóm lại, không thể có sự tiến hóa của các sinh vật sống, vì không có cơ chế nào trong tự nhiên có thể khiến chúng tiến hóa. Điều này phù hợp với bằng chứng của hồ sơ hóa thạch, chứng minh rằng viễn cảnh này rất xa rời thực tế.
Bình luận của PVHg’s Home
Nếu thuyết tiến hóa Darwin là chuyện hoang đường thì thuyết Tân Darwin là một học thuyết dối trá, bia đặt, sai lệch với thực tế. Luận điểm của thuyết Tân-Darwin rằng đột biến dẫn tới tiến hóa thực chất chỉ là một giả thuyết ngụy biện nhằm cứu vãn thuyết tiến hóa Darwin khỏi sụp đổ trước sự tấn công của Di truyền học Mendel đầu TK 20.
Luận điểm này không dựa trên bất kỳ một cơ sở thực tiễn nào, mà chỉ là một tưởng tượng của Ronald Fisher, một nhà toán học thống kê, kẻ từng đặt vấn đề nghi ngờ Mendel ngụy tạo số liệu thí nghiệm. Fisher được giới tiến hóa tôn sùng như người có công lớn đóng góp cho thuyết tiến hóa sau Darwin, nhưng bị những người chống thuyết tiến hóa coi là kẻ dối trá, vì một mặt ông ta tung ra luận điệu nghi ngờ Mendel ngụy tạo số liệu thí nghiệm, nhưng chính ông ta lại là người đề xướng việc kết hợp di truyền học Mendel với thuyết tiến hóa Darwin để cho ra đời Lý thuyết tổng hợp về tiến hóa, tức thuyết Tân Darwin.
Hội nghị quốc tế tại Viện Wistar ở Philadelphia năm 1966 đã kết luận học thuyết Tân Darwin không thể bảo vệ được bằng toán học. Nói cách khác, hội nghị này đã bác bỏ luận điểm của Ronald Fisher[2].
Luận điểm của Ronald Fisher, tức học thuyết Tân Darwin, cũng đã bị chứng minh là sai bởi công trình nghiên cứu về Genetic Entropy của John Sanford, trong đó Sanford chứng minh rằng đột biến dẫn tới thoái hóa chứ không phải tiến hóa.
Thực tế, công nghệ biến đổi gene của thực phẩm trong nhiều năm qua chỉ tạo ra những thực vật biến đổi gene, không dám tạo ra động vật biến đổi gene, vì động vật biến đổi gene đều dị dạng quái thai, gây khiếp sợ, không ai dám ăn. Trang mạng sau đây sẽ cung cấp những hậu quả thực sự của đột biến gene:
Xem những hình ảnh quái thai đó, độc giả nghĩ gì về việc Ronald Fisher coi đột biến là nguyên nhân dẫn tới tiến hóa? Liệu có thể có một học thuyết nào dối trá và bệnh hoạn hơn học thuyết Tân Darwin của Ronald Fisher không?
DJP 06/06/2025
[1] https://www.islam.com.kw/imaginary-mechanism-of-evolution/
[2] https://viethungpham.com/2015/08/28/mendel-disproved-darwinism-mendel-bac-bo-hoc-thuyet-darwin/
