NTM 47 | Khả năng tự chữa lành

Khả Năng Tự Chữa Lành: Bí Ẩn Cơ Thể Và Thông Tin Vũ Trụ

Giải Mã Bí Ẩn Nhân Loại T4

Nguồn: https://www.youtube.com/@NhanThucMoi/videos

One thought on “NTM 47 | Khả năng tự chữa lành

  1. Kính gửi Giáo sư Phạm Việt Hưng, Bác sĩ Trần Thị Tuấn Nga, và MC Lê Anh Dũng cùng tập thể kênh Nhận Thức Mới

    Xin phép được trình bày những vấn đề căn bản qua buổi nói chuyện của Giáo sư Phạm Việt Hưng, Bác sĩ Trần Thị Tuấn Nga, và MC Lê Anh Dũng trên kênh Nhận Thức Mới

    1. Đặc Trưng Căn Bản trong Tinh Thần, Văn Hóa Tư Tưởng & Truyền Thống Tư Duy Triết Học Tây phươngĐông Phương

    Cách đây hơn 25 thế kỷ, từ thủa ban đầu, Tinh Thần, Văn Hóa Tư Tưởng và Truyền Thống Tư Duy Triết Học Tây phương và Đông phương không có sự khác biệt nhau trải dài từ Hy Lạp cổ đại sang Ấn Độ và Trung Hoa, các bậc Hiền Triết cả hai bờ Tây và Đông đều có những nét chung như nhau xem vũ trụ thiên địa vạn vật là Thể Thống Nhất có sự tương quan trong Quy Luật Chung Nhất. Nhưng càng về sau, bắt đầu có sự khác biệt dần theo hai xu hướng căn bản: truyền thống tư duy Triết Học Tây phương thiên về PHÂN TÍCH (ANALYSIS) và tìm hiểu thế giới thực tại khách quan dẫn đến PHÂN NGÀNH KHOA HỌC CHUYÊN SÂU (Science) xuất phát từ Triết Học Tự Nhiên và Triết Học Xã Hội mà phân thành các Khoa Học Tự Nhiên (Natural Sciences) và các Khoa Học Xã Hội (Social Sciences), như vậy kiến thức và nhận thức nhân loại bị PHÂN CHIẾT thành những mớ hiểu biết vụn vặt rời rạc, mãi đến đầu thế kỷ mới có sự tái sinh NHẬN THỨC LIÊN HỢP thành KHOA HỌC LIÊN NGÀNH (INTERDISCIPLINES); trong khi truyền thống tư duy Triết Học Đông phương thiên về TỔNG HỢP (SYNTHESIS) và THỐNG NHẤT giữa vũ trụ thiên địa vạn vật theo một Quy Luật Chung Nhất, ở Trung Hoa cổ đại gọi là 道 Đạo – và Thuyết TAM TÀI gồm THIÊN ĐỊA NHÂN của trường phái Triết Học Nho Gia cho rằng 天人相應 Thiên Nhân Tương Ứng – 天人相與 Thiên Nhân Tương DữTrời (và) Người (có) Tương Quan, ở Ấn Độ cổ đại quan niệm con người là Tiểu Vũ Trụ (Atman) có sự tương quan hòa hợp với Đại Vũ Trụ (Brahman), và truyền thống tư duy Triết Học TỔNG HỢP (SYNTHESIS) và THỐNG NHẤT giữa vũ trụ thiên địa vạn vật luôn được gắn liền với sự ra đời và hình thành các tôn giáo, và ta cũng nên biết rằng Ki-tô Giáo xuất phát từ Do Thái Giáo (Judaism) thuộc về Đông phương chứ không phải là tôn giáo ở Tây phương như người ta hay nói, và Thiên Chúa Giáo với Đức Tin vào Đấng Sáng Tạo có ba nhánh lớn cùng thờ một Thiên Chúa là Hồi Giáo (Islam), Do Thái Giáo (Judaism) và Ki-tô Giáo (Christianity) còn gọi là Cơ Đốc Giáo. CÁC TÔN GIÁO ĐẶC BIỆT LÀ CÁC TÔN GIÁO LỚN CỦA NHÂN LOẠI ĐỀU XUẤT PHÁT TỪ ĐÔNG PHƯƠNG.

    道生一,一生二,二生三,三生萬物 –老子 ĐẠO SINH NHẤT, NHẤT SINH NHỊ, NHỊ SINH TAM, TAM SINH VẠN VẬT (MỘT SINH HAI, HAI SINH BA, BA SINH VẠN VẬT) – Lão Tử

    人法地,地法天,天法道,道法自然。《老子道德經•第二十五章》

    Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên.” [Lão Tử Đạo Đức Kinh – Đệ Nhị Thập Ngũ Thiên]

    “Người theo phép của Đất, Đất theo phép của Trời, Trời theo phép của Đạo, Đạo theo phép của Tự Nhiên.” [Đạo Đức Kinh – Chương 25]

    Danh Sĩ Nho Học Trần Cao Vân có bài thơ sau nói về vai trò của cá nhân và con người trong vũ trụ trời đất.

    VỊNH TAM TÀI – sáng tác: Trần Cao Vân

    Trời đất sinh ta có ý không

    Chưa sinh trời đất có ta trong

    Ta cùng trời đất ba ngôi sánh

    Trời đất in ta một chữ đồng

    Đất nứt ta ra trời chuyển động

    Ta thay trời mở đất mênh mông

    Trời che đất chở ta thong thả

    Trời đất ta đầy đủ hóa công.

    (Trích: Chương V. THÂN PHẬN CON NGƯỜI XUYÊN QUA TRIẾT LÝ ẤN ĐỘ, tác phẩm NHÂN-BẢN, Sài Gòn, nhà xuất bản Ra Khơi, Trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, 1965, Giáo sư Tiến sĩ Triết Học (Pháp) Linh Mục Lương Kim Định (1915 – 1997)

    Phật Giáo ở Ấn Độ cho rằng NGHIỆP (KARMA) của con người là HÀNH TRẠNG của Tư Duy / Ý Thức hình thành nên Chủng Tử (Seeds) và sau khi con người lìa đời khỏi trần thế thì các Chủng Tử được “truyền gửi” vào “ký ức vũ trụ” để sau đó “gửi lại” vào Tư Duy / Ý Thức khi “linh hồn” đó chuyển sinh sang kiếp sau – lưu ý Phật Giáo không công nhận có “linh hồn” mà gọi là “tâm thức” hay “thần thức” vì lẽ “linh hồn” là “bất tử”, như vậy sẽ dễ chấp nhận các Thiên Tài bẩm sinh hay Thần Đồng khi còn thơ ấu như các Thiên Tài âm nhạc là Beethoven, Mozart, v.v. … chưa học mà đã biết. Và các bậc Chân Tu khi đạt tới Giác Ngộ và Đắc Quả có được thần thông ở con mắt thứ ba gọi là Tuệ Nhãn (con mắt của Trí Tuệ) có thể đọc được THÔNG TIN là các Chủng Tử (Seeds) trong KHO KÝ ỨC VŨ TRỤ nên biết được quá khứ và vị lai (未來 vị lai: tương lai chưa tới).

    Sự khác biệt TỐI CĂN BẢN QUAN YẾU NHẤT trong Truyền Thống Tư Duy Triết Học Tây phương và Đông phương là Thế Giới Quan (The World Outlook) và Nhân Sinh Quan (The Philosophy of Human Life), Tây phương thiên về KHÁM PHÁ & CHINH PHỤC nên các khoa học phát sinh ngày càng đi sâu vào thế giới vụ trụ vạn vật, rồi KHAI THÁC các nguồn tài nguyên dẫn đến hủy hoại môi sinh (ecological life), các bức vẽ của hội họa Tây phương vẽ con người chiếm tỷ lệ to lớn trong toàn bức tranh vẽ, trong khi Đông phương thiên về HÒA HỢP với vũ trụ thiên địa vạn vật nên hình ảnh con người trong các bức vẽ lại thu nhỏ giữa trời đất mênh mông, các bức tranh thủy mặc ở Trung Hoa luôn có những khoảng trống với con người ở giữa cảnh núi cao sông dài rừng sâu.

    2. TÂM & THỂ Hòa HợpTài Nguyên Năng Lượng Tái Sinh Khôi Phục Trật Tự

    Tâm (Mind, Spirit) & Thể (Body) luôn có sự HÒA HỢP TƯƠNG ỨNG, những suy nghĩ tiêu cực phát sinh các độc tố tạo môi trường phát sinh các mầm bệnh là những kết quả nghiên cứu lâm sàng của khoa Tâm Lý Bệnh Học Tây phương đã xác nhận.

    Trong truyền thống tôn giáo Ấn Độ cổ đại có Bộ Ba Thần Linh (Trimurti) gồm Brahma (Sáng tạo), Vishnu (Bảo Tồn hoặc Tái Sinh – Khôi Phục) và Shiva (Hủy Diệt) – vai trò Tái Sinh (hóa thân): Vishnu giáng thế để chống lại cái ác và Khôi Phục Trật Tự Ban Đầu Tự Nhiên.

    Não bộ con người hoạt động trên cơ sở THU NHẬN Tín Hiệu có nội dung Thông Tin là Năng Lượng Tinh Thần – Ý Thức. Các khoa học gia Hoa Kỳ đã quan sát trạng thái NHẬP ĐỊNH SÂU của người tu tập Thiền Định có Sóng Não Theta có hình biểu đồ lăn tăn của cơn sóng nước, trạng thái Mẫn Cảm và Trí Tuệ nhất làm giảm Stress vốn là căn nguyên bệnh tật do từ Tâm (Mind, Spirit) chuyển sang Thể (Body).

    Tín Hiệu (Signal) có Tín Hiệu Vật Chất (Physical) là CƠ, NHIỆT, QUANG, ĐIỆN, ÂM THANH, HÌNH ẢNH, ÁNH SÁNG (QUANG PHỔ), SÓNG ÂM.

    Tín Hiệu có Tín Hiệu Phi Vật Chất (Unphysical) là các Ý Nghĩ, Cảm Xúc tích cực hoặc tiêu cực, các Giá Trị Cốt Lõi (Core Values) về Tinh Thần và Đạo Đức như Tình Yêu Thương từ Trái Tim Nhân Ái có tác động nhất định đến cơ thể và tinh thần con người.

    Tây Y thiên về Vệ Sinh – Đông Y thiên về Dưỡng Sinh (ăn uống đúng, suy nghĩ đúng, tư thế đúng) Nước, Oxy (Dưỡng Khí), Giấc Ngủ, Vận Động Trật Tự Tự Nhiên Cân Bằng Năng Lượng Điều Hòa Tự Chữa Lành của cơ thể con người.

    Xin cảm ơn Giáo sư Phạm Việt Hưng, Bác sĩ Trần Thị Tuấn Nga, và MC Lê Anh Dũng trên kênh Nhận Thức Mới đã có buổi nói chuyện khoa học hữu ích và thú vị.

    Sài Gòn, sáng thứ Bảy 11:00 A.M. ngày 25 tháng 10 năm 2025. – Giuse Lê Long

    (P/S: Tối qua con xem Talk-show mới của Thầy và bác sĩ Trần Thị Tuấn Nga về chủ đề NĂNG LƯỢNG TỰ CHỮA LÀNH và con cũng đã nhận Email của Thầy gửi con tối qua với Link về Video Talk-show nói trên.

    Dưới đây là Comment của con tại phần Bình Luận của Video Talk-show nói trên ở YouTube và con cũng đưa Comment này của con vào TRANG NHÀ của Thầy ở đây ĐẦY ĐỦ HƠN với các Ý Kiến và Câu Trích Dẫn (Quote) từ TRANG NHÀ của Thầy, ĐẶC BIỆT là bài thơ của Thi Sĩ thời triều Đường là Liễu Tôn Nguyên mà con dịch từ nguyên bản Hán văn với nhiều bản dịch Việt ngữ ở dưới kèm theo bản Anh ngữ và Pháp ngữ của bài thơ này để minh họa thêm ý tứ trong Comment của con.

    Con cũng gửi lại Comment này được lưu lại trong File cũ SỐ LẺ NGUỒN GỐC SỰ SỐNG và File bản dịch bài thơ Hán ngữ của Liễu Tôn Nguyên dưới đây vào Email của Thầy, nghĩa là con gửi vào Email của Thầy 2 File Word ATTACHED (ĐÍNH KÈM)

    Con xin cảm ơn Thầy rất nhiều ạ … !!! )

    Liu Zongyuan & Fishing in the Snow of Translation – (Kính tặng hương hồn song thân – Giuse Lê Long)

    (Liễu Tôn Nguyên và Bản dịch Tuyết Giang Điếu Ngư / Câu Cá Trên Sông Tuyết Rơi – by Lucas Klein)

    (Một kiệt tác Đường Thi – A Masterpiece of Tang Dynasty Poems)

    江雪

    千山鳥飛絕

    萬徑人蹤滅

    孤舟簑笠翁

    獨釣寒江雪

    (柳宗元)

    Giang Tuyết – trứ tác: Liễu Tôn Nguyên

    Thiên sơn điểu phi tuyệt

    vạn kính nhân tung diệt

    cô chu thoa lạp ông

    độc điếu hàn giang tuyết

    Tuyết rơi trên Sông/ Trên dòng sông Tuyết

    (người dịch: Giuse Lê Long)

    Một ngàn trái núi không có một con chim bay,

    một vạn dặm chẳng có một người nào qua lại.

    Một ông già đội chiếc nón tơi trên chiếc thuyền đơn độc,

    chỉ một mình câu cá trên dòng sông lạnh giá tuyết rơi…!

    Giang Tuyết

    (người dịch: Giuse Lê Long)

    Ngàn non vắng chim bay,

    vạn dặm mất dấu người.

    Thuyền câu thả chơi vơi,

    Ngư lão, sông tuyết rơi…!

    Giang Tuyết

    (người dịch: Giuse Lê Long)

    Ngàn non hiu hắt vắng chim bay,

    vạn dặm mù sương mất dấu người.

    Bơi thuyền, một lão đội nón lá,

    trên sông thả mồi, tuyết lạnh rơi …!

    Câu Cá Trên Sông Tuyết Rơi

    (người dịch: Giuse Lê Long)

    Ngàn non tịch bóng chim bay,

    mù sương vạn dặm khói mây dấu người.

    Trên thuyền một lão nón tơi,

    thả câu lẻ chiếc tuyết rơi bên dòng…!

    Giang Tuyết

    (người dịch: Lê Chí Linh, Thân Phụ của Giuse Lê Long)

    Ngàn non không một tiếng chim,

    xa xôi vạn dặm chẳng in dấu người.

    Thuyền câu một chiếc đơn côi,

    ngư ông áo lá tuyết rơi sông hàn…!

    Câu Cá Trên Sông Tuyết Rơi (Tuyết Giang Điếu Ngư)

    (Phỏng tác: Giuse Lê Long)

    Ngàn trùng cánh mờ phương …

    Muôn dặm dấu nhòa đường …

    Xa xa in bóng thẳm …

    Âm u tiếng hư không …

    Mặt sông phẳng lặng gương…!

    Tiết đông khói mù sương …

    Thuyền câu chiếc lẻ dòng …

    Tuyết rơi … một lão ông …!

    Câu Cá Trên Sông Tuyết Rơi (Tuyết Giang Điếu Ngư)

    (Phỏng tác: Giuse Lê Long)

    Ngàn trùng thăm thẳm bóng chim bay …

    Muôn dặm nao nao biệt dấu người …

    Trời đất mênh mông miền hun hút …

    Vũ trụ âm u bặt tiếng hơi …

    Gió đùa mặt sông gương phẳng lặng …!

    Tiết đông sương khói nhuốm màu mây …

    Thuyền câu lẻ chiếc, một ông lão …

    áo tơi nón lá, tuyết lạnh rơi …!

    NEIGE SUR LE FLEUVE

    Sur mille montagnes, aucun vol d’oiseau

    Sure dix mille sentiers, nulle trace d’homme

    Barque solitaire : sous son manteau de paille

    Un vielliard pêche, du fleuve figé, la neige

    (François Cheng, trans.)

    RIVER SNOW

    A thousand mountains without a bird.

    Ten thousand miles with no trace of man.

    A boat. An old man in a straw raincoat,

    Alone in the snow, fishing in the freezing river.

    (Kenneth Rexroth, trans.)

    RIVER SNOW

    A thousand peaks: no more birds in flight.

    Ten thousand paths: all trace of people gone.

    In a lone boat, rain cloak and a hat of reeds,

    an old man’s fishing the cold river snow.

    (David Hinton, trans.)

    RIVER SNOW

    These thousand peaks cut off the flight of birds

    On all the trails, human tracks are gone.

    A single boat—coat—hat—an old man!

    Alone fishing chill river snow.

    (Gary Snyder, trans.)

    RIVER SNOW

    A thousand mountains—no bird’s flight.

    A million paths—no man’s trace.

    Single boat. Bamboo-leaved cape. An old man.

    Fishing by himself: ice river. Snow.

    (Wai-lim Yip, trans.)

    Nguồn: http://www.cipherjournal.com/html/liu_zongyuan.html

    Thích

Bình luận về bài viết này