Prof J. Lennox: “Hawking is Wrong” / GS J. Lennox: “Hawking SAI”

Responding to Hawking’s “Grand Design”, Professor John Lennox at Oxford University claimed in an article published on Dailymail, UK, 3 September 2010: “As a scientist I’m certain Stephen Hawking is wrong. You can’t explain the universe without God”. Lennox pointed out how illogical were Hawking’s scientific and philosophical arguments. It’s my honour to introduce the above article to everyone through my following brief translation and comments…

Đáp lại cuốn “Thiết kế lớn” của Hawking, Giáo sư John Lennox tại Đại học Oxford tuyên bố trong một bài báo đăng trên Dailymail ở Anh ngày 03/09/2010: “Với tư cách một nhà khoa học tôi khẳng định Stephen Hawking sai. Bạn không thể giải thích vũ trụ mà không có Chúa”. Lennox đã chỉ ra cho thấy luận cứ khoa học và triết học của Hawking phi logic như thế nào. Xin hân hạnh giới thiệu bài báo nói trên với mọi người thông qua bản lược dịch và bình luận của tôi sau đây…

LỜI GIỚI THIỆU CỦA NGƯỜI DỊCH

John Lennox là một Giáo sư Toán học kiêm Giáo sư Triết học Khoa học tại Đại học Oxford ở Anh. Ông nổi tiếng với các công trình về Lý thuyết Nhóm (Theory of Group), tác giả của 70 bài báo học thuật chuyên môn, đồng tác giả của 2 bộ Sách Chuyên khảo Toán học của Đại học Oxford, và là người giới thiệu toán học Nga với thế giới Tây phương. Đồng thời, với tư cách một nhà triết học khoa học, ông thường xuyên xuất hiện trên nhiều diễn đàn triết học, giải thích cho mọi người thấy quan điểm coi khoa học đối lập với tôn giáo là một kiểu nhận thức lỗi thời và ấu trĩ. Theo ông, chính tư tưởng truyền thống của Cơ đốc giáo đã từng là nguồn kích thích và nuôi dưỡng các khám phá khoa học, bởi lẽ niềm tin cơ bản của Cơ đốc giáo dựa trên nền tảng cho rằng Chúa sáng tạo ra vũ trụ và buộc vũ trụ tuân thủ những định luật hoàn hảo, đẹp đẽ ─ niềm tin ấy chính là động lực dẫn tới cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu tiên trong thế kỷ 16-18 với những tên tuổi lịch sử như Copernicus, Kepler, Galileo, Descartes, Pascal, Newton,… Tất cả những nhà khoa học hàng đầu này đều là những người tin vào Đấng Sáng tạo và đều coi những khám phá của mình là những Mặc khải của Thiên Chúa (God’s Revelations). Mặc dù Chủ nghĩa Tự nhiên (Naturalism) dấy lên từ thế kỷ 19 đã phá hủy truyền thống đó, nhưng những nhà khoa học giỏi nhất của thế kỷ 19 và 20 như Louis Pasteur, Gregor Mendel, Lord Kelvin, Max Planck, Albert Einstein, Werner Heisenberg, Kurt Gödel,… vẫn tiếp tục tin vào Đấng Sáng tạo như tác giả của vũ trụ và sự sống, bởi đó là niềm tin hình thành nên từ chính những khám phá kỳ diệu trong khoa học. Bản thân Stephen Hawking cũng đã từng như vậy, nhưng dần dần ông đã thay đổi để đi tới một kết luận triết học phi khoa học rằng vũ trụ ra đời từ hư không. Trong bài báo trên Dailymail ngày 03/09/2010, GS John Lennox đã chỉ ra cho chúng ta thấy lập luận của Hawking phi logic cả trong khoa học lẫn triết học. Ông khẳng định rằng tuyên bố của Hawking hoàn toàn vô nghĩa, bất kể Hawking nối tiếng và có uy tín khoa học cao như thế nào.

Sau đây là bản lược dịch bài báo của John Lennox trên Dailymail 03/09/2010, kèm theo bình luận của PVHg’ Home.

Với tư cách một nhà khoa học tôi chắc chắn Stephen Hawking sai. Bạn không thể giải thích vũ trụ mà không có Chúa

Bài của John Lennox, GS Toán học và Triết học Khoa học, Đại học Oxford, Anh,

trên Dailymail Online, 03/09/2010

Không thể phủ nhận Stephen Hawking có tính cách đậm nét trí tuệ cũng như anh hùng về thể chất. Trong cuốn sách mới nhất của mình, nhà vật lí nổi tiếng này đã đưa ra một thách thức táo bạo đối với niềm tin tôn giáo truyền thống, niềm tin cho rằng vũ trụ là do Chúa sáng tạo.

Theo Hawking, chính các định luật vật lý chứ không phải Chúa đã đưa ra lời giải thích thực sự về sự sống trên trái đất đã ra đời như thế nào. Ông cho rằng Big Bang là hệ quả không thể tránh khỏi của các định luật này, “bởi vì có một định luật như định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ hư không”.

Thật không may, trong khi lập luận của Hawking được ca ngợi là gây nên tranh cãi và đột phá, nó chẳng có gì là mới. Trong nhiều năm, nhiều nhà khoa học khác cũng đã đưa ra những tuyên bố tương tự, khẳng định rằng sự sáng tạo thế giới kỳ diệu và tinh tế xung quanh chúng ta chỉ có thể được diễn giải bằng các định luật vật lý như định luật hấp dẫn.

Đây là một cách tiếp cận đơn giản hóa, nhưng trong thời đại thế tục của chúng ta, đó là một kiểu tiếp cận dường như được bộ phận công chúng hoài nghi tôn giáo hưởng ứng.

Nhưng, với tư cách vừa là một nhà khoa học vừa là một người Cơ đốc giáo, tôi phải nói rằng tuyên bố của Hawking là sai lầm. Ông yêu cầu chúng ta lựa chọn giữa Thiên Chúa và các định luật vật lý, như thể chúng nhất thiết phải xung đột với nhau.

Nhưng trái với những gì Hawking tuyên bố, các định luật vật lý không bao giờ có thể cung cấp một lời giải thích đầy đủ về vũ trụ. Bản thân các định luật không tạo ra bất cứ cái gì cả, chúng chỉ là sự mô tả những gì xảy ra dưới những điều kiện nhất định.

Dường như Hawking đã lẫn lộn định luật với tác nhân môi giới trung gian. Việc ông kêu gọi chúng ta hãy lựa chọn giữa Chúa và vật lý hơi giống với việc đề nghị chúng ta hãy lựa chọn giữa ngài kỹ sư hàng không Frank Whittle và các định luật vật lý để giải thích động cơ phản lực.

Đó là một sự lẫn lộn về các phạm trù. Các định luật vật lý có thể giải thích động cơ phản lực hoạt động như thế nào, nhưng ai đó đã phải chế tạo ra chiếc động cơ, đưa nhiên liệu vào và khởi động nó. Máy bay phản lực không thể được tạo ra mà không có các quy luật vật lý của riêng nó ─ nhưng nhiệm vụ phát triển và sáng tạo cần đến thiên tài của Whittle như một tác nhân trung gian.

Tương tự như vậy, các định luật vật lý không bao giờ có thể thực sự tạo ra vũ trụ. Một số tác nhân trung gian phải tham gia.

Một ví dụ tương tự đơn giản, định luật chuyển động của Isaac Newton tự nó không bao giờ bắn ra một quả bóng bi-a lăn qua tấm thảm màu xanh lá cây. Điều đó chỉ có thể được thực hiện bởi những người chơi bi-a thông qua hành động của cánh tay của họ.

Đối với tôi, lập luận của Hawking thậm chí còn phi logic hơn nữa khi ông nói rằng lực hấp dẫn tồn tại có nghĩa là sự hình thành vũ trụ chắc chắn xảy ra. Nhưng làm thế nào mà có lực hấp dẫn ngay từ đầu? Ai đặt nó ở đó? Lực sáng tạo nào ẩn đằng sau sự ra đời của lực hấp dẫn?

Tương tự, khi Hawking tranh luận để chống đỡ cho lý thuyết của ông về sự hình thành vũ trụ tự phát, trong đó nói rằng chỉ cần sao cho ngòi nổ được châm ngòi thì vũ trụ sẽ vận hành, câu hỏi đặt ra là ngòi nổ ấy từ đâu mà ra? Và ai đã châm ngòi cho nó, nếu không phải là Chúa?

Phần lớn lý lẽ đằng sau lập luận của Hawking nằm ở tư tưởng cho rằng có một sự xung đột sâu xa giữa khoa học và tôn giáo. Nhưng tôi không nhận thấy mối xung đột đó.

Đối với tôi, với tư cách một tín đồ Cơ Đốc giáo, vẻ đẹp của các định luật khoa học chỉ củng cố thêm niềm tin của tôi vào một lực sáng tạo thông minh, thần thánh đang hoạt động. Càng hiểu khoa học, tôi càng tin Chúa vì tôi kinh ngạc trước cái bao la vĩ đại, sự tinh tế và tính toàn vẹn trong sự sáng tạo của Ngài.

Nói một cách chính xác, nguyên nhân khoa học nở rộ mạnh mẽ trong thế kỷ 16 và 17 chính là do niềm tin cho rằng các quy luật tự nhiên đã được khám phá và mô tả rõ ràng đã phản ánh tác động của một nhà ban hành định luật thần thánh.

Một trong những chủ đề cơ bản của Cơ đốc giáo là vũ trụ đã được xây dựng theo một thiết kế hợp lý, thông minh. Khác với khoa học, đức tin Cơ đốc giáo thực sự mang lại ý nghĩa khoa học hoàn hảo.

Cách đây vài năm, nhà khoa học Joseph Needham đã thực hiện một nghiên cứu sử thi về phát triển công nghệ ở Trung Quốc. Ông muốn tìm hiểu lý do tại sao Trung Quốc, mặc dù có những phát kiến từ xa xưa, đã bị bỏ lại phía sau châu Âu trong sự tiến bộ của khoa học.

Ông miễn cưỡng đi đến kết luận rằng khoa học châu Âu đã được thúc đẩy bởi niềm tin rộng rãi vào một lực sáng tạo hợp lý, được gọi là Chúa, làm cho tất cả các định luật khoa học có thể hiểu được.

Mặc dù vậy, Hawking, giống như nhiều nhà phê bình tôn giáo khác, muốn chúng ta tin tưởng rằng chúng ta chỉ là một tập hợp ngẫu nhiên của các phân tử, sản phẩm cuối cùng của một quá trình vận động vật chất không có định hướng.

Điều này, nếu đúng, sẽ làm suy yếu tính hợp lý rất cần thiết để nghiên cứu khoa học. Nếu bộ não thực sự là kết quả của một quá trình không được dẫn dắt thì không có lý do gì để tin vào khả năng nó nói cho chúng ta biết sự thật.

Chúng ta đang sống trong thời đại thông tin. Khi chúng ta nhìn thấy một vài chữ cái trong bảng chữ cái đánh vần tên của chúng ta trên mặt cát, phản ứng tức thời của chúng ta là nhận ra công việc của một trí tuệ thông minh. Vậy còn gì rõ ràng hơn một nhà sáng tạo thông minh ẩn đằng sau DNA của con người, cơ sở dữ liệu sinh học khổng lồ chứa ít nhất 3,5 tỷ “chữ cái”?

Thật thú vị để thấy  Hawking, trong khi tấn công tôn giáo, cảm thấy ép buộc phải nhấn mạnh đến lý thuyết Big Bang. Bởi vì, dù cho những người không có đức tin tôn giáo không thích nó, lý thuyết Big Bang lại phù hợp với câu chuyện của Cơ đốc giáo về sự sáng tạo.

Đó là lý do vì sao, trước khi lý thuyết Big Bang trở nên phổ biến và thịnh hành, rất nhiều nhà khoa học đã muốn giải tán nó, vì dường như nó ủng hộ câu chuyện của Kinh Thánh. Một số người bám vào quan điểm của Aristotle về “vũ trụ vĩnh cửu” không có đầu không có cuối; nhưng lý thuyết này và các biến thể sau đó của nó giờ đây đã bị mất uy tín sâu sắc.

Nhưng sự ủng hộ cho sự tồn tại của Thiên Chúa đã vượt qua lĩnh vực khoa học. Trong đức tin Cơ đốc giáo, cũng có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy Thiên Chúa đã tỏ mình ra với loài người qua Chúa Jesus Christ cách đây hai thiên niên kỷ. Điều này được ghi chép lại không chỉ trong các thánh thư và chứng ngôn khác mà còn trong nhiều phát hiện khảo cổ học.

Hơn nữa, kinh nghiệm tôn giáo của hàng triệu tín đồ không dễ dàng loại bỏ. Bản thân tôi và gia đình tôi có thể chứng thực cho đức tin có ảnh hưởng nâng cao tinh thần cho đời sống của chúng ta, một đức tin thách thức tư tưởng cho rằng chúng ta chẳng là gì khác một tập hợp ngẫu nhiên của các phân tử.

Sự mạnh mẽ như vậy là thực tế hiển nhiên cho thấy chúng ta là những con người có đạo đức, có khả năng hiểu được sự khác biệt giữa đúng và sai. Không có con đường khoa học nào dẫn tới một đạo đức như vậy.

Vật lý không thể truyền cảm hứng cho mối quan tâm của chúng ta đối với người khác, hoặc tinh thần vị tha đã tồn tại trong xã hội loài người kể từ buổi bình minh.

Sự tồn tại của một tập hợp các giá trị đạo đức chung cho thấy sự tồn tại của một lực siêu việt vượt ra ngoài các định luật khoa học. Thật vậy, thông điệp của chủ nghĩa vô thần luôn luôn là một điều gây tò mò, miêu tả chúng ta là những sinh vật ích kỷ chẳng có định hướng sống nào khác là sinh tồn và tự mãn.

Hawking cũng cho rằng khả năng tồn tại các dạng sống khác trong vũ trụ làm suy yếu niềm tin tôn giáo truyền thống rằng chúng ta đang sống trên một hành tinh duy nhất, do Thiên Chúa tạo ra. Nhưng không có bằng chứng nào cho thấy các sinh vật khác đang có mặt ở đó, và Hawking chắc chắn không có mặt ở đó.

Tôi thấy buồn cười khi những người vô thần thường tranh luận về sự tồn tại của trí thông minh ngoài trái đất. Tuy nhiên, điều đó chỉ nói lên rằng họ quá háo hức muốn tố cáo khả năng rằng chúng ta đã có một con người rộng lớn, thông minh ở đó: Thiên Chúa.

Loạt súng bắn mới của Hawking không thể làm rung chuyển nền tảng của một đức tin đã được đặt trên nền tảng bằng chứng.

Bình luận của PVHg’s Home

Bình luận 1: Dựa trên bài báo đã đăng trên Dailymail 03/09/2010, mới đây GS John Lennox đã phát triển những lập luận của ông thành một bài báo mới trên trang RZIM ngày 23/11/2010 với nhan đề “Stephen Hawking and God” (Stephen Hawking và Chúa)[1]. Đó là một bài báo khoa học – triết học – tôn giáo tuyệt vời, sẽ sớm được giới thiệu trên PVHg’s Home. Xin độc giả chú ý đón đọc.

Bình luận 2: Tuyên bố của Hawking về vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ hư không thể hiện sự bế tắc của khoa học vật chất thuần túy. Sự bế tắc này xuất phát từ sai lầm triết học cơ bản khi cho rằng thế giới chỉ có vật chất.

Thật vậy, khi Hawking tuyên bố, “vì có một định luật như luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ hư không”, ông đã tự mình mâu thuẫn với mình:

Mâu thuẫn 1: Khái niệm “hư không” ở đây không phải là “chân không” (vacuum) mà là “tuyệt đối không có vật chất nào cả”. Điều này đã được Hawking nói rõ trong một bài báo khác nhan đề “Wave Function of the Universe” (Hàm sóng của vũ trụ)[2]. Vậy , bất chấp vì lý do gì mà Hawking đi tới kết luận vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ hư không thì có thể khẳng định rằng toàn bộ lý luận của Hawking đã chống lại Định luật bảo toàn vật chất – định luật khẳng định vật chất không tự nhiên sinh ra,  không tự nhiên mất đi, chúng chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác.

Mâu thuẫn 2: Dưới ánh sáng của Lý thuyết Thông tin, tất cả mọi định luật vật lý thực ra là những THÔNG TIN VŨ TRỤ. Do đó câu nói của Hawking hàm ý NHỜ CÓ THÔNG TIN NÊN VŨ TRỤ HÌNH THÀNH. Điều này sẽ đúng nếu có một vật chất ban đầu, chẳng hạn như điểm kỳ dị (singularity point) trong Lý thuyết Big Bang. Khi đó thông tin sẽ hướng dẫn cho điểm kỳ dị ấy biến hóa theo những chương trình đã định. Nhưng thông tin ấy từ đâu ra, nếu nó không xuất phát từ một NGUỒN TRÍ TUỆ THÔNG MINH? Và điểm kỳ dị ấy cũng từ đâu mà ra? AI CHÂM NGÒI cho nó bùng nổ? Bản thân Hawking trước đây từng tin vào sự cần thiết phải có một nguồn trí tuệ thông minh sáng tạo ra vũ trụ, nhưng ông đã thụt lùi về nhận thức triết học, tự vứt bỏ những suy nghĩ thông minh của chính ông cách đây 30 năm, khi ông viết cuốn Lược sử Thời gian.

Bình luận 3: Hawking đã từng sai lầm khi cho rằng thông tin bị “nuốt” tại lỗ đen[3]. Nay ông lại phạm sai lầm khi cho rằng Định luật hấp dẫn, tức THÔNG TIN vũ trụ, có thể là “tác nhân” tạo ra vũ trụ mà không cần có một vật chất ban đầu. Điều này cho thấy Hawking có một sự lẫn lộn giữa khái niệm THÔNG TIN với khái niệm VẬT CHẤT. Khó tin một bộ não sắc sảo như Hawking mà có thể có những nhầm lẫn khá cơ bản trong triết học khoa học như thế, nhưng tiếc thay, đó là một sự thật mà chính ông tự giới thiệu cho công chúng thấy. Nhưng đáng tiếc hơn là có những người mắc bệnh thờ phụng uy tín và tiếng tăm của Hawking nên bất luận Hawking nói gì cũng coi như thánh nói.

Qua đó có thể thấy Hawking không hiểu một nhận định rất quan trọng của Nobert Wiener, cha đẻ của cybernetic, một nhận định có thể xem như một TIÊN ĐỀ của khoa học hiện đại:

Thông tin là Thông tin, không phải vật chất hoặc năng lượng; không có chủ nghĩa vật chất nào không thừa nhận điều này mà có thể sống sót trong thế giới ngày nay” (Information is information, not matter or energy. No materialism which does not admit this can survive at the present day)[4].

Tiên đề ấy đòi hỏi chúng ta thay đổi tận gốc thế giới quan, rằng THẾ GIỚI HIỆN THỰC không chỉ có vật chất, mà còn có phi vật chất (Non-material Reality), đó là thông tin. Trong thời đại hiện nay, một nhà khoa học không thừa nhận tiên đề này sẽ không thể có thế giới quan đúng đắn. Ngược lại, thừa nhận tiên đề này sẽ dẫn tới một cách nhìn cách mạng về thế giới, và do đó sẽ giải thích được rất nhiều hiện tượng mà “chủ nghĩa tự nhiên” (naturalism) bế tắc.

Bình luận 4: Stephen Hawking, vốn là một nhà vật lý xuất sắc, tại sao bỗng nhiên bị dồn vào chỗ khó để phát biểu những điều vô nghĩa như vậy? Những người hiểu lịch sử vật lý biết rõ điều này: Mọi chuyện bắt đầu từ Lý thuyết Big Bang.

Thật vậy, Lý thuyết Big Bang dẫn khoa học vật chất, tức chủ nghĩa tự nhiên, tới chỗ bế tắc, vì chủ nghĩa này không làm thế nào giải thích được nguồn gốc điểm ban đầu của vũ trụ, tức điểm kỳ dị (singularity point).

Nguồn gốc của Lý thuyết Big Bang là Thuyết Tương đối Tổng quát của Albert Einstein, và chính Einstein đã đi từ nghi ngờ đến chỗ tán thưởng lý thuyết này. Một dịp khác chúng ta sẽ thảo luận kỹ về Big Bang, hôm nay xin đọc giả chú ý đến vài chi tiết sau đây:

–  Lý thuyết Big Bang là một công trình vĩ đại với sự đóng góp của nhiều nhà khoa học lớn, nhưng người đầu tiên nêu lên lý thuyết này là George Lemaître (1894-1966), một thầy tu kiêm một nhà vật lý lý thuyết người Bỉ.

–  Năm 1931, Lemaître công bố “Giả thuyết về Nguyên tử Nguyên thủy” (Primeval Atom Hypothesis), chính là Lý thuyết Big Bang sau này. Nguyên tử nguyên thủy chính là điểm kỳ dị.

–  Albert Einstein lúc đầu nghi ngờ, nhưng sau này tán thưởng công trình của Lemaître đến nỗi đã thốt lên: “Đây là sự giải thích đẹp nhất và thỏa mãn nhất về sự sáng tạo mà tôi đã từng nghe về nó từ xưa tới nay!” (This is the most beautiful and satisfactory explanation of creation to which I have ever listened!)[5].

–  Quan sát thiên văn của Edwin Hubble năm 1929 ủng hộ lý thuyết của Lemaître, và lý thuyết này bắt đầu được phổ biến mạnh mẽ. Nhà toán học và thiên văn học nổi tiếng người Anh là Fred Hoyle, trong một lần trả lời phỏng vấn trên Đài BBC, đã mô tả lý thuyết này là lý thuyết Big Bang. Tên gọi đó nhanh chóng được giới khoa học hưởng ứng, và từ đó tên gọi ấy chính thức bước chân vào lịch sử khoa học.

Các nhà khoa học theo Thuyết Sáng tạo hiện nay coi Lý thuyết Big Bang như một bằng chứng không thể chối cãi của sự sáng tạo của Chúa, như Einstein đã nói. Điều này đã được phản ánh rõ trong bài “Nan đề Sáng Thế / Genesis Problem[6] trên PVHg’s Home ngày 13/11/2013, trong đó đã dẫn một tuyên bố bất hủ của Robert Jastrow, một nhà khoa học nổi tiếng của NASA, rằng: “Đối với nhà khoa học sống bằng niềm tin vào lý lẽ, câu chuyện kết thúc giống như một giấc mơ buồn. Anh ta đã leo lên ngọn núi vô minh; sắp chinh phục được đỉnh cao nhất; nhưng khi trèo lên tảng đá cuối cùng, anh ta lại được chào đón bởi một nhóm các nhà thần học đã ngồi ở đó từ hàng thế kỷ nay”…

Nếu Big Bang làm cho các nhà khoa học theo Thuyết Sáng tạo vui mừng bao nhiêu thì đồng thời cũng làm cho các nhà khoa học vô thần thất vọng bấy nhiêu. Đây chính là lý do để họ, các nhà khoa học vô thần phải cố SÁNG TÁC ra một cái gì đó để thoát khỏi bế tắc, và thế là ra đời lý thuyết ĐA VŨ TRỤ (Multiverse). Nói cách khác, Lý thuyết Đa Vũ trụ được sáng chế ra để cứu vãn chủ nghĩa tự nhiên, vì nếu vũ trụ không phải do Chúa sáng tạo thì nó ắt phải có một NGUYÊN NHÂN BÊN NGOÀI NÀO KHÁC. Nguyên nhân này ắt phải nằm bên ngoài vũ trụ.

Theo Định lý Gödel, mọi hệ logic đều phải có một nguyên nhân bên ngoài của nó. Với những người theo Thuyết Sáng tạo như Newton, Pasteur, Einstein, Gödel,…nguyên nhân bên ngoài của vũ trụ là Đấng Sáng tạo, hoặc Nhà Thiết kế vũ trụ.

Nhưng chủ nghĩa tự nhiên không chịu thừa nhận điều đó, họ phải tìm một nguyên nhân nào khác bên ngoài vũ trụ mà không phải là Chúa. Và họ đã SÁNG TÁC ra cái mà họ cần: Lý thuyết Đa Vũ trụ.

Đó là lý do Hawking cổ súy mạnh mẽ cho Lý thuyết Đa Vũ trụ. Nhưng than ôi, lý thuyết này hoàn toàn chỉ là tưởng tượng trên giấy, mặc dù khả năng sáng tác của các nhà vật lý lý thuyết bây giờ đã đạt tới trình độ gần như các nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng. Tiếc thay, công trình sáng tác này không bao giờ có thể kiểm chứng được, bởi chúng ta sẽ không bao giờ trở thành NHỮNG THIÊN THẦN BAY RA BÊN NGOÀI VŨ TRỤ để kiểm chứng vũ trụ của mình một cách đầy đủ, huống chi nói đến những vũ trụ khác, nếu có. Tất cả những thông tin GIẬT GÂN trên báo chí nói về việc kiểm chứng lý thuyết đa vũ trụ chỉ là những thứ “morphine” hoặc thuốc an thần để làm yên lòng chủ nghĩa tự nhiên đó mà thôi. Đó là một giấc mơ không tưởng.

Trớ trêu thay, chính Hawking, trong bài báo của ông nhan đề “Gödel và sự kết thúc của vật lý” (Gödel and The End of Physics)[7], đã từng khuyên chúng ta chớ có hy vọng hão huyền về một lý thuyết có thể giải thích được mọi thứ của vũ trụ. Vậy mà bây giờ ông lại mơ tới những vũ trụ khác! Thế có phải ông tự mâu thuẫn với chính ông hay không? Đây, chính ông đã từng viết:

Nhưng chúng ta không phải là thiên thần nhìn vũ trụ từ bên ngoài. Thay vào đó, cả chúng ta lẫn các mô hình của chúng ta đều là một bộ phận của vũ trụ mà chúng ta đang mô tả. Như vậy, một lý thuyết vật lý là một hệ tự quy chiếu, như trong định lý của Gödel. Do đó người ta có thể cho rằng nó hoặc không nhất quán hoặc không đầy đủ. Cho đến nay, các lý thuyết hiện có vừa không nhất quán vừa không đầy đủ”.

Vậy bây giờ Hawking làm thế nào để biến thành một thiên thần nhìn vũ trụ từ bên ngoài?

Tóm lại, cuốn “Thiết kế Vĩ đại” (Grand Design) của Hawking mâu thuẫn với bài báo “Gödel và sự kết thúc của vật lý” (Gödel and The End of Physics) của chính Hawking. Và cũng mâu thuẫn với tuyên bố của chính Hawking trước đây rằng:

Vũ trụ và các định luật vật lý dường như đã được thiết kế đặc biệt cho chúng ta. Nếu bất kỳ một tính chất nào trong khoảng 40 tính chất vật lý mà có sự khác biệt chút xíu thì sự sống như ta biết đã không thể tồn tại: Hoặc các nguyên tử sẽ không bền vững, hoặc chúng không kết hợp với nhau để thành phân tử, hoặc các ngôi sao sẽ không tạo ra các nguyên tố nặng, hoặc vũ trụ sẽ bị sụp đổ trước khi sự sống có thể ra đời, vân vân…”[8]

Phải chăng một nhà khoa học một khi đã nổi tiếng và có uy tín khoa học cao thì tha hồ muốn nói gì thì nói vẫn được mọi người tin theo? Không, những người thông minh không nghĩ như thế, như GS Lennox đã nói:

Vô nghĩa là vô nghĩa, cho dù điều ấy được nói ra bởi những nhà khoa học nổi tiếng thế giới

 

PVHg 06/04/2018

CHÚ THÍCH

[1] http://rzim.org/just-thinking/stephen-hawking-and-god/

[2] Trong một công trình mang tên “Wave Function of the Universe” (Hàm sóng của vũ trụ), Hawking viết: “Unlike the black hole pair creation, one couldn’t say that the de Sitter universe was created out of field energy in a preexisting space. Instead, it would quite literally be created out of nothing: not just out of the vacuum, but out of absolutely nothing at all, because there is nothing outside the universe” https://physics.stackexchange.com/questions/13013/stephen-hawking-says-universe-can-create-itself-from-nothing-but-how-exactly .

[3] Xem “Cuộc chiến lỗ đen” (The Black Hole War), Leonard Susskind, Người dịch: Pham Văn Thiều & Phạm Thu Hằng, NXB Trẻ 2010

[4] http://www.informationphilosopher.com/solutions/scientists/wiener/

[5] Einstein and Lemaître: two friends, two cosmologies… http://inters.org/einstein-lemaitre

[6] https://viethungpham.com/2013/11/13/nan-de-sang-the-genesis-problem/

[7] Khoa học & Tổ Quốc Tháng 03/2012  http://www.hawking.org.uk/godel-and-the-end-of-physics.html

[8] Quotes on Darwinism (1) 21 https://viethungpham.com/2018/03/24/quotes-on-darwinism-trich-dan-ve-hoc-thuyet-darwin-1/

10 thoughts on “Prof J. Lennox: “Hawking is Wrong” / GS J. Lennox: “Hawking SAI”

  1. CÁC ĐỊNH LUẬT THẦN THÁNH – QUY LUẬT TỰ NHIÊN, ĐỊNH LUẬT VẬT LÝ VÀ THIÊN CHÚA ĐỀU LÀ MỘT. TẤT CẢ CÁC SUY NGHĨ VÀ LUẬN THUYẾT TÁCH BẠCH CHÚNG ĐỀU SAI LẦM, (VÌ CHƯA TỚI CÙNG KỲ LÝ). ĐÂY LÀ MỘT LỖI LẦM LỚN HAY MẮC PHẢI CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU PHƯƠNG TÂY (CHỈ NHÌN BẰNG CON MẮT KHOẢNH KHẮC MÀ KHG BIẾT THẾ NÀO LÀ TOÀN DIỆN TRƯỚC A VÀ SAU Z))

    Thích

  2. Một bài viết tuyệt vời của ông Lennox, và anh Hưng đã có công phổ biến nó.
    Câu trả lời cho câu hỏi “cái gì tạo ra nó?”, “Nó” là lực hấp dẫn và muôn vàn quy luật khác mà con người nhận thức ra được trong suốt tiến trình lịch sử của mình…”, nhưng cái tạo ra nó thì chỉ có kỹ sư hàng không (trong bài) và Chúa đã tạo ra được.
    Khoa học chỉ là con đường để con người nhận ra Chúa tồn tại mà thôi. Đúng hơn là Chúa dẫn đường cho con người nhận ra mình thông qua các nhà khoa học lớn trong lịch sử. Đó là thiên mệnh của họ. Họ là những thiên sứ.
    Tiếc thay, thiên sứ ấy không hẳn dành cho Stephen Hawking. Ông chắc chắn là người vĩ đại, nhưng không hẳn đã được nhận mệnh thiên sứ.
    Nhưng kẻ cố tình đối lập khoa học với tôn giáo, quả thực vô cùng ấu trĩ về nhận thức triết học. Hoặc là họ không vượt qua được cái định kiến cố hữu.
    Cảm ơn anh Hưng. Chúc anh luôn khỏe.

    Đã thích bởi 1 người

    • Cám ơn anh Nguyễn Bình, Những ý sau đây rất hay:

      – Khoa học chỉ là con đường để con người nhận ra Chúa

      – Các nhà khoa học vĩ đại là những người có thiên mệnh

      – Stephen Hawking rất giỏi, nhưng không hẳn là thiên sứ.

      PVHg

      Đã thích bởi 1 người

  3. Cám ơn GS Lennox, cám ơn dịch giả Phạm Việt Hưng, Bài báo quá hay !
    Qua những bài trước của bác Hưng, tôi thấy ông Hawking cũng từng tin vào thiết kế của Chúa, ấy thế mà ông lại thay đổi để nói ra cái điều không thể nghe được là vũ trụ tự tạo ra nó từ hư không. Tôi không làm sao có thể tin vào bất cứ lý luận khoa học nào có thể chứng minh hư không biến thành vũ trụ. Đến đây thì buộc lòng phải nghi ngờ mấy ông khoa học nổi tiếng. Không phải cái gì các ông ấy nói cũng đáng tin.
    Chuyện ông Hawking nói còn khó nghe hơn chuyện thuyết tiến hóa nói sự sống ra đời ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Thế mà cũng gọi là khoa học ư. Nếu ông Hawking đúng thì các thầy giáo dạy vật lý sẽ nói sao với học sinh về định luật bảo toàn vật chất đây? Nếu học sinh đứng lên hỏi văn thầy giáo định luật bảo toàn vật chất sai thì thầy trả lời sao? Vì ông Hawking nói thế.
    Tôi nghĩ không cần đến GS lennox, chỉ cần một học sinh cũng đủ để nói ông Hawking sai rồi.
    Theo phân tích của bác Hưng thì đó là do thuyết đa vũ trụ. Thú thật là tôi cũng không tin cái lý thuyết này. Lý thuyết big bang còn chưa trả lời được hết mọi câu hỏi nữa là cái lý thuyết đa vũ trụ ấy. Khoa học ngày càng lắm thứ đáng nghi ngờ.
    H.A.

    Đã thích bởi 1 người

  4. Các nhà khoa học cách đây cũng không lâu từng có khái niệm về DNA tối ( dark DNA ). Họ mượn ý tưởng về vật chất tối ( dark matter ) trong vũ trụ. Bài báo sau có nói:
    http://genk.vn/khong-chi-vu-tru-moi-co-vat-chat-toi-cac-sinh-vat-cung-co-dna-toi-ben-trong-minh-20170829175834797.chn

    Và một bài báo gần đây nhất trích ở trang newscientist:
    https://www.sott.net/article/379453-Dark-DNA-The-missing-matter-at-the-heart-of-nature

    Cháu không biết chuyện về DNA tối có phải sự thật hay không. Họ cũng gọi DNA tối là gen bị mất tích ( missing gene ). Và không biết từ khi nào có thuật ngữ Biological dark matter. Trang wiki nói rằng đó là thuật ngữ không chính thức. Không lẽ cũng có cả thông tin tối ( dark information ) nữa ?

    Khoa học đầy rẫy sai lầm. Nhưng nếu đó là sự thật thì quả thực không những trong thế giới vĩ mô ( vũ trụ ) chứa đầy bí mật, mà còn cả thế giới vi mô phân tử, Chúa cũng đã đặt để vào đó những bí mật kín giấu cho chúng ta khám phá

    Đã thích bởi 1 người

    • Rất cảm ơn bạn Nguyễn Vĩnh Minh Thành,

      Bạn đã cung cấp những tư liệu cho thấy THUYẾT TIẾN HÓA BẾ TẮC ĐẾN ĐƯỜNG CÙNG đến nỗi phải BỊA ĐẶT RA NHỮNG KHÁI NIỆM MỚI KHÔNG AI CÓ THỂ KIỂM CHỨNG để mong cứu vãn cho sự sụp đổ tất yếu của lý thuyết mà họ tôn thờ.
      Tôi chưa từng biết khái niệm DARK DNA. Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói.
      Thế mới biết sự ngoan cố của MẤY ÔNG TIẾN HÓA thật là khinh khủng, Thật là trơ trẽn hết chỗ nói.
      Vấn đề là mỗi chúng ta có đủ TỈNH TÁO để khỏi mắc vào cãi bẫy lừa dối của họ hay không mà thôi. Ngày xưa tôi nghe một ông Julius nào đó kêu lên “Nhân loại ơi hãy cảnh giác!”. Tôi xin bắt chước ông Julius để nói “Các bạn ơi, hãy CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG CHUYỆN BỊA ĐẶT VÀ LỪA DỐI CỦA CÁC NHÀ TIẾN HÓA”, vì họ đã từng bịa đặt và lừa dối trắng trợn! PVHg

      Thích

  5. Bác Hưng kính mến!
    Đọc bài viết mới của bác về Hawking,… chính các định luật vật lý chứ không phải Chúa đã đưa ra lời giải thích thực sự về sự sống trên trái đất đã ra đời như thế nào. Ông ta cho rằng Big Bang là hệ quả không thể tránh khỏi của các định luật này, “bởi vì có một định luật như định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ hư không”. Cháu thấy nhà khoa học này khi nổi tiếng thì tuyên bố một cách phản khoa học. Chính cuộc đời của ông Hawking là phép lạ của Chúa ban tặng cho ông ấy, vậy mà vì không tin vào Chúa ông ấy đã không nhận ra may mắn của mình mà tin vào Chúa, thật là đáng tiếc vô cùng cho ông ấy.

    Câu chuyện về ông Hawking làm cho cháu nhớ đến thí nghiệm về chiếc bình thủy tinh cổ cong thiên nga của Pasteur. Sau thí nghiệm này Pasteur khẳng định : “Không bao giờ học thuyết sinh vật hình thành tự phát có thể hồi phục lại được nữa từ cú đòn chết người mà thí nghiệm đơn giản này đã giáng lên nó”.

    Thí nghiệm đó đến nay vẫn được xem như một mô hình mẫu mực của phương pháp khoa học chính xác. Nó không chỉ có ý nghĩa đối với ông Darwin mà có ý nghĩa cả với ông Hawking nữa. Ý cháu nói tư tưởng của ông Hawking về vũ trụ sinh ra từ hư không cũng tương tự như tư tưởng của ông Darwin về sự sống sinh ra từ vật chất không sống.

    Cần phải nói cho các em học sinh điều này: Đổ một chất nước dinh dưỡng vào một chiếc bình có cổ thiên nga – cổ vòi cong hình chữ S nằm ngang để mở với không khí, tức là không khí bên ngoài có thể lọt vào bên trong bình, nhưng vi khuẩn không vào được, vì chúng bị kẹt lại cùng với bụi tại các đoạn uốn cong. Trước hết, ông đun sôi nước dinh dưỡng trong bình để đảm bảo trong bình lúc đầu không hề có sinh vật, rồi đợi một thời gian xem sinh vật có xuất hiện trong bình hay không. Nếu có thì nước dinh dưỡng sẽ bị biến dạng, thay đổi mầu sắc. Kết quả thật mỹ mãn: sau một thời gian chờ đợi đủ lâu, nước dinh dưỡng không hề thay đổi mầu sắc, không hề có sinh vật mới xuất hiện trong bình! Pasteur đã chỉ cho các nhà phê bình và những người hoài nghi rằng trong trường hợp này, nước dinh dưỡng trong bình cổ cong vẫn vô trùng (không có sự sống trong đó). Trong khi đó, bình thủy tinh bình thường, tức là bình không có cổ thiên nga, xuất hiện rất nhiều vi sinh vật tụ tập. Điều này chứng tỏ giả thiết tồn tại một thành phần tạo ra sự sống trong không khí chỉ là một ảo tưởng!

    Và cũng có nghĩa là vũ trụ được sinh ra từ hư không của ông Hawking là sai lầm hoàn toàn.

    Cháu muốn nói đến vấn đề Đức tin, trong cuộc sống hiện nay khi mà Đạo đức ngày càng suy đồi, xuống cấp, con người chúng ta sống không có Đức tin thì theo cháu coi như cuộc đời này là vô ý nghĩa. Bởi vì chúng ta sinh ra trên cuộc đời này, chỉ để sinh con đẻ cái, lo kiếm miếng ăn để nhét vào bụng, sau đó để chết là hết hay sao?

    Chính vì không có Đức tin vào Đấng Tối cao cho nên hàng ngày hàng giờ con người ta cứ vội vàng, nháo nhác, lo lắng, tìm kiếm thật nhiều vật chất đem lại cho bản thân mình, gia đình mình nhưng lòng tham khiến người ta không biết đến tìm kiếm đến khi nào mới đủ đầy.

    Trong cuộc tìm kiếm mưu sinh thì không phải lúc nào cũng gặp được may mắn, như ý nguyện của mỗi người, và mỗi khi gặp khó khăn, thử thách, đau khổ trong cuộc đời khiến cho con người rơi vào bế tắc, thậm chí có lúc dẫn đến tuyệt vọng, vậy lúc đó con người biết bám víu vào đâu, nếu không có Đức Tin vào Thượng đế thì thật là ngàn lần đau khổ. Và những bất công đầy rẫy trong cuộc đời này ai sẽ là người sẽ phán xử? Và vì thiếu Đạo đức con người sống ganh ghét, đố kỵ, xấu xa, bất chấp cả đồng loại. Chỉ có Đức tin vào Chúa, tin rằng sống để yêu thương và tha thứ. Tha thứ cho mọi người và tha thứ cho chính bản thân mình mỗi khi ta mắc phải sai lầm, để mà đứng lên làm lại cuộc đời, đó mới là cứu cánh của đời người.

    Chính vì thế mà hiện nay trên báo chí, các phương tiện truyền thông xảy ra những vụ tự tử không chỉ 1 người mà kéo theo cả gia đình, đưa đến nhiều thảm cảnh thật đau thương!

    Đối với cháu Đức tin vào Đấng Toàn năng là vô cùng quan trọng trong cuộc đời này. Ai không có niềm tin ấy thật là thiệt thòi, cháu nghĩ ông Stephen Hawking tuy là nhà khoa học nổi tiếng mà thiếu Đức tin thật là sai lầm và đáng tiếc vô cùng cho ông ta và cả nhân loại!

    Có Đức tin tâm hồn con người sẽ nở hoa hướng thiện, đưa chúng ta đến miền an lạc, bình an! Chúng ta hiểu ra rằng mỗi ngày chúng ta sống hôm nay là đang được Chúa quan phòng, chúng ta sống mang lại niềm vui cho chính bản thân chúng ta, mang lại niềm hạnh phúc cho những người xung quanh, cho những người chúng ta yêu thương mỗi ngày, đó chính là ý nghĩa của đời người, ý nghĩa của cuộc sống chân, thiện mỹ, đúng không hả bác?!
    Chúc bác càng ngày càng nhận được nhiều ơn phúc của Chúa mang lại niềm vui cho mọi người bằng những công trình nghiên cứu khoa học sâu sắc, thiết thực, ý nghĩa nhất của bác!
    Chúa phù hộ cho bác mỗi ngày! Cháu cảm ơn bác rất nhiều về những bài viết của bác!

    Cháu Bình Minh.

    Thích

  6. Dear Bác Hưng,
    Đọc xong bài viết cháu thấy thật đáng tiếc khi Ông Hawking lại có sự mâu thuẫn với chính mình như vậy?

    Và, câu mà cháu thấy tâm đắc nhất trong bài là: ” Các định luật vật lý có thể giải thích động cơ phản lực hoạt động như thế nào, nhưng ai đó đã phải chế tạo ra chiếc động cơ, đưa nhiên liệu vào và khởi động nó.”

    Cháu xin chia sẻ với Bác suy nghĩ của cháu.
    Như Bác đã biết chuyện cháu bỏ thời gian ra tìm hiểu đạo Phật, lý do là vì cháu cứ thắc mắc trong đầu là tại sao một người lỗi lạc như Phật Thích Ca mà lại phủ nhận sự thật là Chúa đã tạo dựng ra chúng ta.

    Có thật Phật Thích Ca không phủ nhận Chúa không?

    Sau một thời gian tìm hiểu cháu đã có câu trả lời cho mình: “KHÔNG, ĐỨC PHẬT THÍCH CA KHÔNG PHỦ NHẬN THIÊN CHÚA”

    Cháu tìm đọc về Phật Thích Ca, thì có chi tiết kể rằng rất nhiều các vị Tu sĩ Bà La Môn và những người thời đó hỏi Phật rằng có Đấng Tối Cao không?

    Nhưng Phật chỉ nói rằng: “Tôi không trả lời những câu hỏi đó”, vì giáo lý của Phật không hướng tới chuyện đó, giáo lý của Phật chỉ tập trung vào con người, hướng dẫn con người thoát khổ. Chứ Phật không phủ nhận Chúa.

    Hay quá! Cháu tìm hiểu đến đó thì đã thấy được điều kiện cần rồi.
    Và cháu đã tìm hiểu thêm để tìm ra điều kiện đủ, để suy ra rằng Đức Phật có thấy Chúa.
    ————–
    Cháu tìm hiểu được rằng, Phật thông thuộc kinh Vệ Đà, tìm cầu rất nhiều thầy dạy, nhưng tất cả đều không giúp Phật giác ngộ, không làm Phật thỏa mãn. Cho đến khi Phật tử bỏ việc tìm cầu thầy dạy và quay về với chính mình và quay về với HƠI THỞ.

    Từ khi Phật biết nương vào HƠI THỞ, quay về với HƠI THỞ mà không tìm cầu những thứ bên ngoài, thì Phật đã Giác Ngộ.

    Và đến tận ngày nay, những ai theo phương pháp Phật dạy đều hiểu được tầm quan trọng của HƠI THỞ, bất cứ một pháp tu mang danh Phật Giáo nào mà không quay về với HƠI THỞ thì không phải là đạo Phật.

    Bất cứ chuyện gì xảy ra, thì chỉ cần quay về với HƠI THỞ, là Tâm sẽ không bao giờ loạn, sẽ có cách giải quyết êm đềm.
    Bất kỳ trạng thái Tham, Sân, Si, Hỷ, Nộ, Ái, Ố nào xảy ra trong ta, thì chỉ cần ta quay về với HƠI THỞ thì chúng đều tan biến.

    Cháu cũng đã thực hành điều đó và giao lưu với nhiều Phật Tử, cháu cũng sang Thái Lan để gặp Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và các đệ tử cao cấp (truyền thừa) của Thiền Sư, thì cái cách mà họ hướng dẫn cháu cũng là quay về với HƠI THỞ.

    Thiền, là Chánh Niệm, chính là quay về với HƠI THỞ.

    Không chỉ Phật Giáo, mà bất kỳ Pháp môn Dưỡng Sinh nào cũng đều phải quay về với HƠI THỞ.
    Ai có khả năng quay về với HƠI THỞ (luôn sống Chánh Niệm/Tinh Tấn/Tỉnh Thức) lâu bền như Phật thì sẽ trở thành Phật, sự thật là như vậy.

    Nói rằng quay về với HỞI THỞ thì dễ, nhưng để bền thì khó, do đó cần sự tu tập.
    ————–
    Sau những thời gian tìm hiểu và thâm nhập thực hành, cháu mới có thể kết luận rằng.

    Hóa ra nhân vật Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm đã tìm ra được nguyên lý ở đời để trở thành Phật, mà các sư phụ của ông đã không tìm ra, đó là quay về với HƠI THỞ.

    Nhiều đệ tử của Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm làm theo lời ông dạy đã đạt được những quả vị nhất định như Bồ Tát, La Hán…
    ————–
    Như thế thì đúng là Phật đã tìm ra được nguyên lý của Vũ trụ rồi.
    Cái việc Phật khám phá ra rằng quay về với HƠI THỞ thì sẽ phá bỏ được Tham, Sân, Si… nó cũng tương tự như việc ông Newton tìm ra được Định luật Hấp dẫn vậy.
    Cũng như các nhà khoa học tìm ra các lực, các định luật…
    Những người này đều đã khám phá ra được nguyên lý vận hành của Vũ trụ.

    NHƯNG… tại sao lại phải là tập trung vào HƠI THỞ?, tại sao không phải là chỉ cần nhìn chằm chằm vào bàn tay phải của mình, hay ngâm dưới nước lạnh thường xuyên… là sẽ điều trị được Tham, Sân, Si… là sẽ trở thành Phật.
    Tại sao lại có Định luật Hấp dẫn, các loại lực khác trong vũ trụ…???

    Trả lời được 2 câu hỏi đó thì chúng ta đã đề cập đến Chúa.
    Cũng như: ” Các định luật vật lý có thể giải thích động cơ phản lực hoạt động như thế nào, nhưng ai đó đã phải chế tạo ra chiếc động cơ, đưa nhiên liệu vào và khởi động nó.”
    ————-
    Cháu đã về chia sẻ với Cha ở Hưng Yên những suy nghĩ trên và Cha chợt vỗ tay *bộp* và nói: “Thì HƠI THỞ chính là Chúa Thánh Thần đó con, con không nhớ Thiên Chúa đã dùng HƠI THỞ của người thổi vào lỗ mũi của tổ tiên chúng ta hay sao?”

    Quay về với HỞI THỞ là quay về với Chúa Thánh Thần, là quay về với Thần Khí Chúa.
    Lúc đó cháu thấy *nổi da gà* như nghiệm ra một điều tuyệt vời, như Thánh Thần Chúa xuống trên cháu lúc đó vậy.

    Tuyệt quá Bác ơi, thì ra Phật đã biết được Thuật quay về HƠI THỞ là sẽ được gặp Chúa Cha, là sẽ cảm nhận được sự mầu nhiệm của vũ trụ – công trình Thiên Chúa sáng tạo.
    Chính cháu khi Thiền, quay về với HƠI THỞ, cháu cũng đã thấy rạo rực, thấy vui tươi, nhìn cảnh vật nó đẹp hơn rất nhiều so với trước khi ngồi Thiền.
    Hay quá, hóa ra là vậy.

    Nhưng tại sao Đức Phật lại không nói đến chuyện có Chúa, mà chỉ tập trung vào con người, dạy con người thoát khổ?
    Cháu đã hỏi Cha như vậy.
    Cha trả lời: “Phải tập trung vào loài người chứ con, con không thấy Chúa Giê-Su đã xuống thế làm người, mặc lấy thân con người hay sao? Chúa Giê-Su đã không bay lượn trên bầu trời như thần tiên mà dạy dỗ con người, mà Chúa đã mặc lấy thân con người, chịu khổ như con người. Để chúng ta hiểu rằng, đừng tập trung vào cái xa xôi, thần tiên, mà phải tập trung vào con người, phải yêu thương nhau, phải yêu thương anh em, đồng loại, kẻ thù. Như thế cũng chính là yêu Chúa và thấy Chúa”

    Hay quá, lúc đó cháu đã vỡ ra, thì đúng là như vậy, đạo Phật dạy mọi người yêu thương tha nhân và bản thân. Như vậy thì có khác gì yêu Chúa đâu.

    Cha bảo: “Yêu Chúa hay yêu con người là một, là 2 mặt của một đồng xu. Con yêu Chúa mà lại ghét bỏ anh em, bạn hữu con. Con bảo yêu bạn hữu con mà lại không yêu Chúa. Điều đó không thể xảy ra, vì anh em, bạn hữu con là Chúa, và Chúa là tất cả bọn họ.”
    —————
    Hóa ra là việc Phật chỉ tập trung vào giải thoát cho con người, Chúa Giê-Su mặc lấy thân con người, đều có chung ý nghĩa.
    Con người, chúng ta hãy cứ yêu thương nhau, là đã yêu Chúa rồi.
    Không phải cứ kêu con yêu Chúa mà lại đối tệ với tha nhân mà được Chúa công nhận.
    Thật là tuyệt.
    ————–
    Còn để giải thích cho câu hỏi, tại sao Phật vẫn không nhắc đến Chúa Cha, thì chúng ta có thể tin rằng, Phật chưa thể nhắc đến điều đó, cho đến 500 năm sau. Người đàn ông tên Giê-Su đã làm điều đó.

    Cũng như Chúa Giê-Su nói rằng trước Chúa đã có rất nhiều vị Tiên Tri dạy dỗ, nhưng loài người vẫn không chịu nghe lời.
    Những Tiên Tri đó là ai nếu không phải là Sokrates, Lão Tử, Khổng Tử, Plato, Phật Thích Ca…

    Những Tiên Tri đó không nói như Chúa Giê-Su cũng có thể hiểu như việc hôm trước bác cháu mình cho rằng Cụ Cần và những người có khả năng đặc biệt đã không nói tại sao lại có khả năng đó, mà chỉ thừa hành và thực hiện thôi.
    —————
    Một điều đáng nói nữa trong đạo Phật, có đề cập đến một lý thuyết tương đồng với Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa của Thiên Chúa Giáo.
    Đó là tất cả cả những ai muốn làm Phật tử thì phải Quy y Tam Bảo, tôn thờ Tam Bảo.
    Tam Bảo đó là Phật-Pháp-Tăng, với ý nghĩa như sau:

    + Phật: Là Tính tuyệt đối, là ĐẠO, là nguồn gốc của mọi thứ, là Chân Như – hiện thân là Phật Như Lai.
    + Pháp: Là giáo pháp, là đường lối, là con thuyền đưa ta tiếp cận được với Đấng Chân Như – hiện thân là Phật A Di Đà
    + Tăng: Là con người, là đoàn thể con người thực tập các Pháp, đi theo đường lối, đi trên con thuyền đưa tới Đấng Chân Như – hiện thân là Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa.

    Phật-Pháp-Tăng còn được gọi là Tam thân: Pháp thân-Báo thân-Ứng hóa thân.
    Niệm danh 1 trong 3 vị Phật kia, cũng là niệm danh 2 vị còn lại.

    Rất tương đồng với Chúa Cha – Chúa Thánh Thần – Chúa Con trong Thiên Chúa Giáo.
    Chúa Giê-Su đã mặc lấy thân thận con người (cũng mang tính chất người) và nhờ sự hướng dẫn và mặc khải của Thần Khí (Chúa Thánh Thần) mà thực hiện theo thánh ý Chúa Cha.

    Người Thiên Chúa Giáo nói rằng Chúa luôn ở trong chúng ta, còn Phật tử nói rằng trong mỗi chúng ta đều có Phật tính.
    —————
    Với tất cả những điều trên trong tư duy của cháu, cháu rất hạnh phúc và xác tín mạnh mẽ tình yêu Thiên Chúa, Tình yêu Giê-Su trong cháu.
    Cháu không còn thắc mắc hay dao động một chút nào nữa.
    Và cháu thấy hạnh phúc luôn luôn thường trực trong cháu.

    Kết hợp Pháp Thiền của Phật Thích Ca, quay về với HƠI THỞ, cháu đã cảm nhận được Chúa một cách tỉnh thức sâu sắc, từng khoảnh khắc.

    p/s: Cháu viết hoa chữ HỞI THỞ là để hoán dụ Chúa Thánh Thần, và nhấn mạnh rằng phép tu việc quay về với HƠI THỞ không chỉ đơn giản như nghĩa đen của nó.

    Cháu cảm ơn Bác và mong Bác lượng thứ nếu câu chữ của cháu nó không được trôi chảy.

    Cháu Chinh.

    Thích

  7. Các bạn nên nhớ, Stephen Hawking là một nhà khoa học bệnh hoạn. Ông mắc chứng bệnh xơ cứng teo cơ (ALS) từ năm 21 tuổi. Với một thân thể bệnh hoạn như thế, thì làm sao ông ta có một Trí Tuệ sáng suốt để nhận biết được Thượng Đế (Thiên Chúa) là Đấng Siêu Hình và Kỳ Diệu không thể nghĩ bàn? Bởi vì tục ngữ có câu: “Một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện”. Nghĩa là sức khỏe thân thể của người ta có liên quan rất mật thiết đến trạng thái tinh thần sáng suốt của họ. Cho nên, việc Stephen Hawking chối bỏ Thượng Đế (Thiên Chúa), chứng tỏ ông ta không có TRÍ TUỆ SÁNG SUỐT, đó là điều đương nhiên, các bạn có đồng ý không???

    Thích

Bình luận về bài viết này