EINSTEIN: LOVE IS THE UNIVERSAL FORCE / EINSTEIN: TÌNH YÊU LÀ LỰC VẠN NĂNG

In a letter to his daughter, Albert Einstein described love as an extremely powerful force – the universal force. He said that Love is God and God is Love. This is a revolution in Einstein’s thought of God. Please read his letter, published by his daughter in the last of 1980s.

Trong một thư gửi con gái, Albert Einstein mô tả tình yêu như một lực vô cùng mạnh mẽ – lực vạn năng. Ông nói Tình yêu là Chúa và Chúa là Tình yêu. Đây là một cuộc cách mạng trong tư tưởng của Einstein về Chúa. Xin đọc lá thư do con gái ông công bố cuối những năm 1980.

Thưa độc giả,

Tôi nhận được bản tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt lá thư này từ một người bạn ở Mỹ, thạc sĩ Vật Lý Đoàn Văn Phụng. Xin trân trọng cảm ơn thạc sĩ Văn Phụng và xin trân trọng giới thiệu lá thư rất đặc biệt này của Albert Einstein đến độc giả. PVHg.

Một lá thư Abert Einstein gửi con gái: TÌNH YÊU chính là Lực Vạn Năng

Vào cuối những năm 1980, cô Lieserl, con gái của thiên tài nổi danh Albert Einstein, đã hiến tặng cho Đại Học Hebrew 1400 bức thư do ông viết ra với lời dặn dò chỉ được công bố các nội dung của chúng hai thập niên sau khi ông mất. Sau đây là một trong những lá thư đó, viết cho Lieserl Einstein….

… Khi cha nêu ra thuyết tương đối thì rất ít người hiểu cha, và bây giờ điều mà cha sẽ bày tỏ để gửi tới nhân loại cũng sẽ đụng chạm với sự ngộ nhận và thiên kiến trên thế giới.

Cha yêu cầu con gìn giữ những thư này lâu dài như cần thiết, nhiều năm hay nhiều thập niên, cho đến khi xã hội đủ tiến bộ để chấp nhận điều mà cha sẽ giãi thích dưới đây.

Có một lực cực kỳ mạnh mẽ mà cho đến nay khoa học chưa tìm ra được một sự giải thích hoàn chỉnh. Đó là một lực bao hàm và thống lãnh tất cả các lực khác, và thậm chí nó đứng sau bất kỳ hiện tượng nào vận hành trong vũ trụ, tuy nhiên nó chưa được chúng ta nhận dạng.

Lực đa năng này là TÌNH YÊU.

Khi các nhà khoa học tìm kiếm một lý thuyết thống nhất về vũ trụ họ đã bỏ quên lực không thấy được nhưng mạnh mẽ nhất đó.

Tình Yêu là Ánh Sáng làm bừng sáng lên người cho và kẻ nhận.

Tình Yêu là trọng trường vì nó khiến cho người ta bị thu hút lẫn nhau.

Tình Yêu là sức mạnh vì nó nhân bội điều thiện hảo ta có, và khiến cho tính nhân đạo không bị dập tắt trong sự vị kỷ mù quáng. Tình Yêu khai mở và tỏ bày.

Ta sống và chết vì yêu.

Tình Yêu là Chúa và Chúa là Tình Yêu.

Lực này giải thích mọi sự và đem ý nghĩa đến cho đời sống. Đây là biến số mà chúng ta đã lãng quên quá lâu, có thể bởi chúng ta e sợ tình yêu do nó là năng lượng duy nhất trong vũ trụ mà con người không biết sử dụng như ý muốn.

Để hình dung được tinh yêu, cha thực hiện một sự thay thế đơn giãn vào trong phương trình nổi danh nhất của cha.

Nếu thay vì  E=mc^2 , ta chấp nhận rằng năng lượng để chữa lành (hàn gắn) thế giới có thể đạt được thông qua tình yêu nhân với bình phương của vận tốc ánh sáng, ta đi đến kết luận rằng tình yêu có sức mạnh vạn năng vì nó không có giới hạn.

Sau sự thất bại của nhân loại trong việc sử dụng và kiểm soát những lực khác của vũ trụ vì chúng đã quay lại chống chúng ta, điều cấp bách là chúng ta phải nuôi dưỡng bản thân mình bằng một loại năng lượng khác…

Nếu chúng ta muốn muôn loài được sống còn, nếu chúng ta tìm kiếm ý nghĩa trong đời sống, nếu chúng ta muốn bảo tồn thế giới và mọi sinh linh trong đó thì tình yêu là một câu trả lời và là câu trả lời duy nhất.

Có lẽ chúng ta chưa sẵn sàng để chế tạo được một quả bom tình yêu như một thiết bị có đủ năng lực phá hủy hoàn toàn sự thù hận, sự ích kỷ và tham lam đang tàn hại hành tinh này.

Tuy nhiên mỗi một cá nhân đơn thuần mang trong mình một máy phát tình yêu tuy nhỏ nhưng mạnh mẽ đang chờ đợi để phát khởi.

Khi chúng ta biết cho và nhận năng lực đa năng này, Lieserl con ạ, chúng ta sẽ xác quyết rằng tình yêu chinh phục tất cả, nó có thể biến đổi mọi sự và bất cứ điều gì, vì tình yêu là yếu tố thứ năm [1] của đời sống.

Cha rất lấy làm tiếc vì không diễn tả được điều ở trong tim cha, nó khẽ đập vì con suốt đời cha. Có lẽ là quá trễ để xin lỗi, nhưng vì thời gian là tương đối, cha cần tỏ với con rằng cha yêu con và nhờ con mà cha đạt tới câu trả lời tối thượng!”

Cha của con, Albert Einstein

Bình luận của PVHg’s Home

Chúng ta đều biết Albert Einstein tin tưởng tuyệt đối vào sự hiện hữu của Đấng Sáng Tạo (The Creator) mà ông thường gọi là “God”, tức Chúa. Tuy nhiên, Einstein không tin vào Chúa của Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo. Nói cách khác, Chúa của Einstein là Đấng sáng tạo ra vũ trụ với những định luật vật lý, nhưng không can thiệp vào đời sống xã hội của loài người.

Tuy nhiên lá thư nói trên cho ta thấy một Einstein “mới mẻ”, một Einstein ít được biết ─ một Einstein cuối đời đã giác ngộ về một Thiên Chúa can thiệp vào đời sống của loài người bởi lực vạn năng: TÌNH YÊU!

Khẳng định bất hủ của ông, “Tình yêu là Chúa và Chúa là tình yêu”, cho phép chúng ta tin chắc rằng tuổi tác và sự trải nghiệm cuộc sống đã dẫn ông quay trở về gần gũi hơn với chân lý của tôn giáo, rằng Thiên Chúa không chỉ là Đấng Sáng Tạo nên vũ trụ, sáng tạo nên loài người, mà còn yêu thương loài người, ở cùng loài người, can thiệp vào đời sống của loài người. Điều này Chúa Jesus nói rõ hơn ai hết:

“Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con phải yêu thương nhau. Thầy đã yêu thương các con thế nào, các con phải yêu thương nhau như vậy” (Giô-an 13:34) / “A new command I give you: Love one another. As I have loved you, so you must love one another”. (John 13:34)

Nhưng từ thế kỷ 19, học thuyết Darwin đã thay thế tình yêu thương đó bằng nguyên lý đấu tranh sinh tồn. Loài người đã coi học thuyết Darwin là khoa học, và cứ thế áp dụng vào đời sống xã hội loài người như một chân lý đã được chứng minh, dẫn tới một thời đại đấu tranh sinh tồn khốc liệt chưa từng có, với hai cuộc thế chiến thảm khốc và nguy cơ chiến tranh hạt nhân như một bóng ma phủ bóng thường trực trên đầu nhân loại.

André Bourguignon, nhà nhân loại học nổi tiếng người Pháp, chua chát thốt lên rằng loài người là một loài điên rồ khi nó là loài DUY NHẤT tiến hành những cuộc tàn sát trong loài của mình, và với hành vi này, loài người tự đặt mình xuống dưới động vật !!!

Lá thư của Albert Einstein không chỉ dành cho con gái của ông, mà là một lời kêu gọi thống thiết của Einstein đối với nhân loại.

Đọc thư của ông, tôi cảm thấy ông đang muốn nói với chúng ta rằng, nhân loại hỡi, hãy tỉnh thức lại đi, chỉ có tình yêu thương mới cứu rỗi con người được mà thôi.

Nhưng thưa ông Albert Einstein, điều ông tha thiết kêu gọi chính là lời dạy của Thiên Chúa giáo từ xa xưa rồi. Có thể chính ông đã không chú ý đến điều đó, để cuối đời ông mới tái khám phá ra một chân lý đã được Thiên Chúa giáo khẳng định từ hàng ngàn năm trước, nên ông mới phải tốn nhiều công phu giải thích một cách vật lý cho loài người hiểu tình yêu là gì, sức mạnh của nó ra sao.

Nhưng dẫu thế nào tôi cũng vô cùng biết ơn Albert Einstein, không phải vì công thức E = mc^2 để các nhà khoa học chế tạo ra bom nguyên tử, mà vì rốt cuộc ông cũng dùng uy tín vĩ đại của ông để nói với nhân loại điều cần nói nhất: chỉ có tình yêu thương mới cứu rỗi được con người.

Xung quanh tính xác thực của lá thư này còn có nhiều nghi vấn, tranh cãi. Tôi sẽ công bố những nghi vấn đó trong những ngày tới.

PVHg 26/09/2017

CHÚ THÍCH:

[1] quintessence hay aether là yếu tố thứ năm sau đất, nước, khí, lửa – một dạng giả định của năng lượng tối (dark energy) dùng để giải thích sự gia tốc của vũ trụ .

BẢN TIẾNG ANH CỦA LÁ THƯ EINSTEIN GỬI CON GÁI

A letter from Albert Einstein to his daughter: on The Universal Force of Love

Albert Einstein (14 March 1879 – 18 April 1955) is perhaps best known for being a theoretical physicist and for receiving the 1921 Nobel Prize in Physics “for his services to Theoretical Physics”.  A lesser known fact about arguably one of the most intelligent men of modern times is that he was also a prolific sender of personal notes and letters upon his own personalised letterhead.

In the late 1980s, Einstein’s daughter Lieserl donated 1,400 letters written by Einstein to the Hebrew University. The text of one of them is reproduced below for you.  Having been sent by Einstein to his daughter, this letter shows a very different side to Einstein’s personality and his outlook on the world.…

When I proposed the theory of relativity, very few understood me, and what I will reveal now to transmit to mankind will also collide with the misunderstanding and prejudice in the world.

I ask you to guard the letters as long as necessary, years, decades, until society is advanced enough to accept what I will explain below.

There is an extremely powerful force that, so far, science has not found a formal explanation to. It is a force that includes and governs all others, and is even behind any phenomenon operating in the universe and has not yet been identified by us.

This universal force is LOVE.

When scientists looked for a unified theory of the universe they forgot the most powerful unseen force.

Love is Light, that enlightens those who give and receive it.

Love is gravity, because it makes some people feel attracted to others.

Love is power, because it multiplies the best we have, and allows humanity not to be extinguished in their blind selfishness. Love unfolds and reveals.

For love we live and die.

Love is God and God is Love.

This force explains everything and gives meaning to life. This is the variable that we have ignored for too long, maybe because we are afraid of love because it is the only energy in the universe that man has not learned to drive at will.

To give visibility to love, I made a simple substitution in my most famous equation.

If instead of E = mc2, we accept that the energy to heal the world can be obtained through love multiplied by the speed of light squared, we arrive at the conclusion that love is the most powerful force there is, because it has no limits.

After the failure of humanity in the use and control of the other forces of the universe that have turned against us, it is urgent that we nourish ourselves with another kind of energy…

If we want our species to survive, if we are to find meaning in life, if we want to save the world and every sentient being that inhabits it, love is the one and only answer.

Perhaps we are not yet ready to make a bomb of love, a device powerful enough to entirely destroy the hate, selfishness and greed that devastate the planet.

However, each individual carries within them a small but powerful generator of love whose energy is waiting to be released.

When we learn to give and receive this universal energy, dear Lieserl, we will have affirmed that love conquers all, is able to transcend everything and anything, because love is the quintessence of life.

I deeply regret not having been able to express what is in my heart, which has quietly beaten for you all my life. Maybe it’s too late to apologize, but as time is relative, I need to tell you that I love you and thanks to you I have reached the ultimate answer!

Your father, Albert Einstein

                                 

3 thoughts on “EINSTEIN: LOVE IS THE UNIVERSAL FORCE / EINSTEIN: TÌNH YÊU LÀ LỰC VẠN NĂNG

  1. Chào chú Hưng,

    Thật vui khi đọc được bài viết này của chú vì đây là bức thư mà cháu chưa hề được đọc qua. Và cũng vì gần đây, tự dưng cháu lại lưu tâm đến A.Einstein ạ. Và trọng tâm là cháu cứ vẫn vơ để câu hỏi một góc trong đầu cháu là, Sao A.Einstein lại không tin Đấng sáng tạo của ông và Chúa trong Kinh Thánh là một chứ? Cháu chưa tìm hiểu/biết nhiều về A.Einstein đâu ạ. Nhưng cháu vẫn hay lẫn vẫn những ý tưởng và câu hỏi như thế khi bắt gặp/đọc được điều gì đó..

    Về công thức E=mc^2. Cho cháu xin chia sẻ một chút ý nghĩ của cháu. Cháu đã từng nghĩ về công thức này ở khía cạnh của sự tác động. Cháu đã giải thích một số truy vấn của mình bằng công thức trên. Đầu tiên, cháu khẳng định, có tồn tại (tương đối) luật nhân quả. (Vì theo cháu, nếu không có luật nhân quả thì mọi thứ sẽ trở nên hư vô). Và luật nhân quả thể hiện trong công thức là “dấu nhân” giữa hai đại lượng. Bất cứ một sự tác động/kết hợp nào đều có ý nghĩa/liên quan.

    Khi cháu thay m bằng tội lỗi của loài người, cháu thấy tác động của nó thật khủng khiếp. Và cháu đã liên tưởng tới Kinh Thánh đoạn Cain giết Aben. Và Chúa đã nói rằng, máu của Cain đổ xuống sẽ làm đất đai trở nên cằn cỗi thế nào…(Theo cháu, đó không phải là một lời chúc dữ của Chúa, mà đó là Chúa vén bức màn nhân – quả cho loài người thấy rõ). Cháu hiểu thêm rằng, máu đối với thân xác quan trọng như thế nào, và hơn thế nữa, máu mang sự sống từ Chúa. Vậy khi máu của người công chính đổ xuống thì tác động lên đất đai và trái đất quả thật là khủng khiếp nếu tồn tại một Hệ số giá trị. Cháu gọi đó là hệ số giá trị và hệ số này thuộc về Chúa, sự to lớn của nó thuộc về Chúa (như c^2 trong công thức trên).

    Và đôi khi cháu có cảm nhận rằng, con người không/không thể hiểu gì điều gì cả, toàn bộ vật chất và tinh thần của vũ trụ này. Không hiểu về mặt ý nghĩa và cả sự hủy diệt của chính nó. Vì tồn tại một Hệ số giá trị rất lớn này. Và mỗi một vật/điều đều gắn với Hệ số giá trị này.

    Và thú thật cháu cũng đã nghĩ tới tình yêu (và cả trị giá đối của nó là lòng thù hận..) như vậy. Và như bức thư của A.Einstein đã đề cập khi gắn với công thức E=mc^2.

    Quả thực, lòng cháu rất vui khi đọc được ý niệm đó của A.Einstein chú ạ. Vì chú biết không, khi cháu đọc câu này của ông trong Thế giới như tôi thấy “Thật đáng buồn cho con người, nếu chỉ vì sợ hãi bị trừng phạt hay vì hy vọng được ban thưởng sau khi chết phải chịu cúi đầu thần phục.” lòng cháu đã cứ khắc khoải vô cùng khi cảm giác một con người khao khát đến sự trọn hảo mà lại không thừa nhận Chúa? Quả là bức màn ngăn cách trong lòng ông chưa được Chúa xé toạc ra đây mà…

    Nhân đây, cháu xin gửi đến chú một bài cháu đã viết về A.Einstein liên quan đến câu nói trên của ông. Bài viết chỉ là suy nghĩ của riêng cháu… nhưng xin được chia sẻ thêm cùng chú.

    Chiều nay đi làm về đang rất mệt, nhưng cháu thật là vui lắm khi đọc được bài này của chú. Chúc chú Hưng nhiều niềm vui và bình an.

    =====

    Thế giới như tôi thấy là một cuốn sách ghi chép về những diễn giải của Albert Einstein dưới nhiều hình thức khác nhau về các vấn đề khác nhau và tất nhiên, không mang tính chất chuyên môn vật lý của ông. Tôi cũng bày vẻ tò mò, đọc cho biết. Chỉ xin dừng lại ở đây một chút.

    Albert Einstein cho rằng:

    Thật đáng buồn cho con người, nếu chỉ vì sợ hãi bị trừng phạt hay vì hy vọng được ban thưởng sau khi chết phải chịu cúi đầu thần phục.

    *** Trước hết xin được cảm nghĩ đôi điều liên quan như sau.

    > Trong Kinh Thánh, trước khi nói đến Thiên Chúa là Đấng công bình, thì đầu tiên và trên hết, Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự tự do.

    Kinh Thánh lặp đi lặp lại chính sự tự do mới tạo nên sự khác biệt trong việc dựng con người với loài vật khác. Khi Chúa thổi thần khí vào con người, đó chính là thần khí của sự tự do. Nhưng nói như thế chỉ mới đúng một phần nhỏ của vấn đề. Sự tự do của Thiên Chúa phải là sự tự do mang thêm đặc tính tuyệt đối của sự thiện. Sự tự do nhưng phải tuyệt đối gắn với sự thiện thì đó mới là sự tự do thuộc về Thiên Chúa. Nên vậy, sự thưởng phạt không nằm trong sự nhận diện đầu tiên về Thiên Chúa.

    > Thiên Đàng trong Kinh Thánh.

    Nếu các Ki tô hữu cho rằng họ (tự do) hướng đến sự thiện lành của Thiên Chúa truyền dạy chỉ vì sự ban thưởng Thiên đàng thì vấp phải hai điều.

    Thứ nhất sự tự do đổi lấy một sự ngang giá thì không còn đúng khái niệm tự do nữa. Quả đúng như vậy, chẳng ai lại nói đến khái niệm tự do mà gắn với một điều khoản cả. Và có thể nhận thấy sự tự do tuyệt đối được Kinh Thánh nói tới qua hai minh chứng ở Adam và Chúa Jessus.

    Khi tạo dựng nên vườn địa đàng, Thiên Chúa đã nói với Adam tất cả về sự chọn lựa. Và hơn hết, trái cấm được đặt ngay ở vườn địa đàng, nghĩa là khi Adam muốn chọn lựa sự bất tuân, ông ta đều có thể thực hiện nó mà không vấp phải bất cứ một sự cản trở nào cả. Đó là sự tự do mà Thiên Chúa trao ban cho con người. “Ta cấm các con ăn trái của một cây trong vườn, nhưng như ý của các con”

    Và đến với hình ảnh Chúa Jessus. Sự tuân phục của Ngài cũng không vì điều gì hơn là được khuất phục sự thiện, được nên một với Đấng tốt lành là Thiên Chúa. Đó là sự do mà Chúa Jessus – đại diện cho hình ảnh con người dâng trao cho Thiên Chúa. “Xin cất chén đằng này xa con, nhưng như ý của Cha”.

    Đó không phải là hai câu chuyện cốt để chỉ dùng lời nói mà thử ý chí, như chúng ta có thể thấy trên những thước phim hay cả trong cuộc sống hằng ngày. Ở đây, ý muốn được thực thi một cách trọn vẹn. Cả hai sự do trên đều đạt được đến cùng của hành động.

    Thứ hai, viễn cảnh Thiên đàng được hình dung quả thật là mơ hồ.

    Vì Thiên Đàng chưa được cụ thể trong Kinh Thánh. Kinh Thánh cho chúng ta hình dung được Thiên đàng là nơi của sự bình an không vì sự cô tịch và tĩnh lặng của nó nhưng là vì có Chúa. Là nơi hạnh phúc và không có sự đau khổ không bởi vì có nhiều tiền bạc, vật chất hơn.. nhưng là nơi nên một với Chúa, nơi có tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn. Thiên đàng là nơi ý chí tự do của con người chính là tự do khuất phục sự thiện của Thiên Chúa, nơi cái tôi của mỗi người khuất phục và trở nên hài hòa trước tự nhiên và mọi người. Chỉ vậy thôi. Kinh Thánh chưa hề nói về một Thiên Đàng cao siêu hơn cho chúng ta ngắm nhìn. Như trong sách Khải Huyền có mạc khải. Ngày Chúa Jessus quang lâm, thì trời mới, đất mới mở ra thay cho trời cũ đất cũ. Trời đất mới chính là trái đất này nhưng không còn tội lỗi nên không còn đau khổ, bệnh tật và cái chết nữa.

    Vì vậy, Thiên đàng được cắm rể ngay từ mặt đất này. Không gì hơn. Không gì khác. Nếu chúng ta sống hài hòa – nơi cái tôi chúng ta bị san phẳng, nơi sự tư do của chúng ta bị khuất phục hoàn toàn cho sự thiện và chỉ vì nó là sự thiện mà thôi, thì chính khi ấy chúng ta đã có Thiên Đàng ngay ở trong lòng mình và bén rể ngay tại mặt đất này. Như chính Chúa Jessus đã nói “Thiên đàng ở trong lòng ta, Địa ngục cũng trong ta mà có”. Nên chăng hướng về Thiên đàng như một nơi xa xăm nào đó, quả là xa rời với những mạc khải mà Chúa muốn nói tới.

    > Xin được lược trích một đoạn phỏng theo Rabia al-Adawiyya (713-801), được mệnh danh là “thi sĩ của tình yêu”. Bà cầu nguyện như sau:

    “Lạy Chúa, nếu con tôn thờ Chúa vì sợ hoả ngục thì xin đốt con trong lửa đó. Nếu con tôn thờ Chúa vì muốn lên thiên đàng thì xin đóng cửa thiên đàng lại. Còn nếu như con tôn thờ Chúa vì Chúa, thì xin đừng ngăn cản con được nhìn thấy Chúa”. Dựa theo lời nguyện đó, người ta kể lại một giai thoại về bà như sau: “Một bữa kia, một đám thanh niên thấy cô Rabia chạy nhanh, một tay cầm đuốc cháy, tay kia xách thùng nước. Họ hỏi: Cô đi đâu vậy? Cô đáp: Tôi chạy lên thiên đàng để đốt nó, và chạy xuống hoả ngục để dập tắt ngọn lửa. Có thế người ta mới phụng thờ Chúa vì lòng mến Chúa chứ không vì mong lên thiên đàng hay vì sợ hoả ngục”.

    *** Về Albert Einstein.

    Albert Einstein vốn là gốc Do Thái, nhưng thật lạ khi người Do Thái là dân tộc sùng kính Thiên Chúa thì chính bản thân ông không tin như vậy. Dầu là Thiên Chúa duy nhất của Do Thái hay Chúa ba ngôi của Kito giáo, thì khái niệm God không chỉ là Đấng sáng tạo nên vũ trụ, mà còn là Đấng quan phòng, yêu thương, lo lắng và quan tâm đến cuộc đời của mỗi thành phần dưới vũ trụ này.

    Ý niệm của A.Einstein ở trên, được xem như là sự tự giác ngộ hay chính xác hơn là suy nghĩ của chính bản thân ông. Suy nghĩ ấy của ông phải nói là rất “người”. Người ta nhận thấy trong câu nói ấy hướng đến một sự tuyệt đối nào đó.

    Đúng như vậy. Trong con người luôn có một nơi sâu thẳm, đó chính là sự vươn tới điều tuyệt đối, sự khao khát trọn vẹn tuyệt đối. Nơi đó chỉ còn sự tự do hướng thiện (chân, mỹ), nhưng tuyệt nhiên không vướng bận một chút sợ hãi hay tư lợi nào. Không như cái cách mà Napoleong có nói: Người ta hành động chỉ vì hai điều: mối lợi và sự sợ hãi. Không. Khi con người tự nguyện khuất phục, khi con người sử dụng sụ tự do để hành động không vì sợ hãi hay tư lợi để hướng đến sự thiện – thì đúng là không còn chỗ cho thiên đàng hay hỏa ngục nữa. Có chăng thiên đàng hay hỏa ngục chỉ là nơi phân cách giữa hai loại người sử dụng sự tự do mà thôi. Chứ không phải là nơi để thưởng phạt. Từ đó ta có thể suy diễn tiếp để hiểu thêm rằng. Nếu Thiên Đàng là nơi nhóm người dùng sự tự do tuyệt đối của mình để khuất phục sự thiện thì có còn đau khổ chăng? Tất nhiên là không rồi. Mỗi người sống bình an, tự do, và hài hòa tuyệt đối. Ngược lại, Hỏa ngục là nơi tồn tại của nhóm người dùng sự tự do của mình để xâm hại người khác, để khuất phục sự độc ác, thì nơi đó vốn đã tồn tại sự đấu tranh, sự đau khổ và hãm hại nhau rồi. Thật quá dễ dàng để hiểu được sự ấy.

    Và.

    Kinh Thánh không mạc khải điều gì khác hơn, là chủ sỡ hữu sự thiện hão ấy chính là Thiên Chúa. Làm sao mà sự thiện hão lại có thể xuất phát từ hư không được chứ? Và hơi thần khí sự sống ấy là được thổi vào con người khi được tạo dựng chính là sự thiện hão của Thiên Chúa. Nơi là chính nhà thần học Augustine luôn tự nhủ “Lạy Chúa, tâm hồn con khắc khoải mãi cho tới khi được an nghỉ trong Chúa”.

    Vậy nên ý niệm của A.Einstein có gì mới chăng? Không, chẳng có gì mới so với giáo lý Kito giáo cả. Nhưng xem ra A.Einstein có kém sâu sắc hơn không? Hay bức màn ngăn cách trong ông chưa được xé toạc ra đủ để xác tín?

    A.Einstein không tin Chúa của Kito giáo nhưng tin vào khái niệm gọi là Đạo Vũ Trụ, tin vào Chúa là có một Đấng sáng tạo ra thế giới này. (Nhưng chỉ vậy thôi, rồi Chúa bỏ đi chơi đâu đó cho nó tự vận hành theo quy luật cài sẵn.) Như vậy, thì cũng như không. Hòa vốn. Ông tin và Đạo Vũ trụ, tin có một vị Chúa sáng tạo ra trời đất. Cả hai điều ấy gộp lại hóa ra chẳng phải là Chúa của Kinh Thánh nói đến là gì? Nào có khác chi?

    Đâm ra, tôi bổng nhớ lại một câu trong những bức thư của St.Paul. Khi dân Do Thái vẫn mong chờ những điềm thiêng dấu lạ, khi người Hy Lạp vẫn đi tìm sự khôn ngoan, thì Kito Giáo vẫn rao truyền một vị Chúa không quyền phép, gục chết khuất phục trên cây Thập tự. Để những người khôn ngoan sẽ trở nên lố bịch hơn bao giờ hết….

    *** Quy luật của vũ trụ. Khi Tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Công Bình.

    Ngày nay, cả trong đời sống lẫn khoa học và vũ trụ, người ta luôn hiểu rằng có một quy luật chi phối vũ trụ này, đó là luật nhân quả – vốn cũng là triết lý của giáo lý Phật Giáo. Thì cũng trong Kito giáo cũng vậy, Thiên Chúa còn là Đấng Công Bình.

    Khi sáng tạo ra vũ trụ này, chính Thiên Chúa đã đặt trong lòng nó một sự công bình. Bởi vì nếu không có sự công bình, nếu không có nhân quả thì mọi thứ sẽ trở nên hư không. Nếu không có nhân quả thì ý muốn của con người sẽ không trở thành sự thật được. Chính hệ tiền tề nhân quả đó, chính sự công bình làm cho mọi thứ được hiện thực.

    Tôi lấy ví dụ, khi Cain đem lòng ghen tức với em mình. Ông ta muốn giết chết em trai mình, để nó đau đớn, để nó không còn trên mặt đất. Sẽ gọi là gì nếu Cain cầm dao giết em mình mà nó không chết? Đó chính là Cain đã không thực hiện được ý chí của mình một cách triệt để. Sẽ gọi là gì khi ta vun trồng mà cây không nở hoa, trái không sinh ra? Không. Nếu không tồn tại hệ tiền đề nhân quả thì ý chí của con người không thể hiện thực được hay nói cách khác sự tự do không tồn tại. Điều này trái hoàn toàn với Kinh Thánh. Vì vậy, để tồn tại sự tự do không gì khác hơn là phải gắn với nhân quả.

    *** Vì vậy, cần làm rõ trong Kinh Thánh điểm này.

    Sau khi sa ngã, Kinh Thánh diễn tả như là Thiên Chúa chúc dữ cho loài người. Nhưng khi đọc văn mạch và ý tứ, ta nên hiểu là Thiên Chúa nói sự thật, Ngài vén bức màn công bình cho loài người thấy rõ hơn mà thôi.

    Sau khi sa ngã, tức sau khi phạm tội các con sẽ phải đau khổ, đàn ông sẽ phải thế này, đàn bà sẽ phải thế kia. Rồi khi Cain và Aben chết Chúa cũng tỏ cho thấy những hậu quả sẽ xảy ra như thế nào. Máu sự sống của người vô tội đổ xuống thì cánh đồng sẽ khô cháy, đất đai sẽ trở nên cằn cỗi. Khi con người nhuốm hận thù và tham lam thì cái sinh khí của sự sống mà nay đã ra thành sự chết ấy đã phủ lên toàn bộ mặt đất rồi. Và chính vì vậy, thế giới là một thể thống nhất và được gắn với hệ tiền đề nhân quả, nên nó sẽ có tác động của hiệu ứng domino, hiệu ứng nhân quả lẫn nhau.

    Bài viết tạm kết thúc ở đây. A.E nói đúng, có quy luật vận hành trong vũ trụ này, có Chúa là Đấng sáng tạo. Nhưng ông quên điều này. Chúa không bỏ ngôi nhà mà Ngài đã xây rồi đi du hí đâu đó. Ngài vẫn ở đây với chúng ta. Tôi hẹn luận điểm này ở một dịp khác vậy.

    Đã thích bởi 1 người

  2. Tôi chú ý đến 2 điểm quan trọng trong thư của Einstein trên đây:
    1. Chúa là Tình Yêu và Tình Yêu là Chúa.
    Như vậy là có sự liên hệ 2 chiều ,và theo quan điểm toán học ta có thể phát biểu rằng:
    “Chúa đồng nhất với Tình Yêu” ( God is identified to Love )
    Từ định nghĩa này về Chúa ta có thể nghĩ về bản chất của Ngài là các “ái tử” hay “hạt
    yêu” (lovetron)? Dĩ nhiên đây chỉ là sự suy nghĩ vụng về và thô thiển theo ngôn ngữ loài
    người thôi.
    2. Ý tưởng của Einstein để “làm” được một quả bom tình yêu chỉ là ảo vọng vì nằm bên
    ngoài khoa học (beyond the sciences) của con người.Dù sao cũng đáng trân trọng mối
    băn khoăn tìm kiếm một nguồn lực vạn năng không làm tàn hại mà đem lại yêu thương
    cho con người.Có lẻ như vậy mới mong tránh khỏi chiến tranh huỹ diệt.
    Là một tín hữu Công Giáo,tôi tin chính Chúa Giêsu Kitô là “Quả Bom Tình Yêu” ấy.

    Thân chào bạn,

    Thích

Bình luận về bài viết này