Super-Natural Phenomena / Hiện tượng Siêu Tự nhiên [2]

 1Among many super-natural phenomena in 20th century, the story of Therese Neumann, a catholic stigmatist, could be the strangest one. As much as this event was extraordinary, it was also a special message from God to our modern society. Decoding this message can be an interesting and rewarding task to pursue in our time…

Trong số rất nhiều hiện tượng siêu tự nhiên trong thế kỷ 20, hiện tượng kỳ lạ nhất có lẽ là câu chuyện về Therese Neumann, một tín đồ Công giáo mang dấu Thánh. Đây không chỉ là một sự kiện phi thường, mà còn là một thông điệp đặc biệt Chúa gửi đến xã hội hiện đại. Giải mã thông điệp này có lẽ là một việc thú vị và có ý nghĩa lớn trong thời đại ngày nay…

Câu chuyện hôm nay xoay quanh một hiện tượng kỳ lạ mà khoa học hoàn toàn bất lực không thể giải thích được, đó là hiện tương “người mang dấu thánh” (stigmatist) – những người bỗng nhiên xuất hiện trên thân thể những vết thương giống y như những vết thương mà Chúa Jesus đã từng chịu đựng trong cuộc khổ hình của Ngài. Những vết thương này không chỉ giống vết thương của Chúa về hình thức bề ngoài, mà là những vết thương thực sự, vết thương rỉ máu và gây nên đau đớn cho người mang dấu thánh. Hiện tượng mang dấu thánh nổi tiếng nhất thế kỷ 20 là trường hợp của nữ tín đồ Công giáo Therese Neumann ở Konnersreuth, Bavaria, nước Đức.

CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT VỀ THERESE NEUMANN, dựa theo lời kể của Paramahansa Yogananda trong cuốn “Tự truyện của một Yogi” (Autobiography of A Yogi)

2Therese Neumann sinh vào Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday) năm 1898. Đó là ngày lễ trọng của Kitô giáo – ngày Thứ Sáu trước Lễ Phục Sinh, ngày tưởng niệm Chúa chịu khổ hình và chết trên Thập giá. Sự kiện Therese Neumann ra đời vào ngày đó âu cũng là một điềm báo trước sứ mệnh đặc biệt của bà – sứ mệnh làm nhân chứng cho Chúa.

Năm 1918, bà bị thương nặng trong một tai nạn, dẫn tới mù lòa và liệt.

Năm 1923, bà bỗng sáng mắt trở lại và lành bệnh một cách mầu nhiệm nhờ cầu nguyện Thánh Thérèse de Lisieux. Từ đó về sau, bà không ăn uống gì ngoài một chiếc bánh thánh mỗi ngày (nhỏ như một đồng xu, mỏng như giấy).

Từ 1926 về sau, cứ đến Thứ Sáu, dấu Thánh xuất hiện trên thân thể bà. Bà chịu đau đớn, thông phần đau khổ với Chúa Jesus. Điều kỳ lạ là vào những Thứ Sáu đó, bà bỗng nhiên thốt ra những lời thuộc các ngôn ngữ xa lạ mà bà không hề biết, bao gồm  ngôn ngữ Aram cổ, Hebrew, Hy Lạp.

Được Giáo hội cho phép, Therese đã đôi lần trải qua các cuộc theo dõi khoa học kỹ lưỡng. Tiến sĩ Fritz Gerlich, biên tập viên một tờ báo Tin Lành ở Đức, đã đến Nonnersreuth để “vạch trần sự lừa lọc của Công giáo”, nhưng cuối cùng lại cung kính viết tiểu sử của Therese Neumann.

3 (2)Năm 1935, nhà Yoga bậc thầy Yogananda, trên đường từ Mỹ về Ấn Độ, ghé qua Âu Châu, đã tới ngôi làng Konnersreuth ở Bavaria để tìm gặp Therese Neumann bằng được. Ông muốn tận mắt chứng kiến phép lạ in dấu thánh. Nhà yoga hỏi nữ thánh:

–  Chị không ăn gì cả sao?

–  Không, trừ một miếng bánh thánh vào lúc 6 giờ mỗi sáng, Therese trả lời.

–  Bánh thánh cỡ chừng nào?

–  Nó mỏng như tờ giấy, kích cỡ một đồng xu nhỏ. Tôi ăn vì những lý do Lễ ban Thánh thể; nếu bánh chưa được dâng thì tôi không thể nuốt.

–  Chắc chắn chị không thể sống bằng bánh ấy, trong 12 năm ròng?

–  Tôi sống bằng ánh sáng của Chúa.

–  Tôi thấy chị đã nhận ra rằng năng lượng trôi vào cơ thể mình từ ê-te, ánh nắng và không khí.

–  Tôi rất mừng khi biết là ông hiểu tôi sống bằng cách nào.

–  Cuộc sống của chị là một minh chứng mỗi ngày cho chân lý mà Chúa đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ vào mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Matthew 4:4)

–  Quả là vậy. Một trong những lý do hôm nay tôi ở đây trên Trái Đất  này là để chứng minh rằng con người có thể sống bằng ánh sáng vô hình của Thiên Chúa, mà không chỉ bằng thực phẩm không thôi.

–  Chị có thể chỉ cho người khác cách sống mà không cần thức ăn không?

–  Tôi không thể làm thế; Thiên Chúa không muốn như vậy.

Therese-NeumannMỗi tuần từ đêm Thứ Năm đến một giờ trưa Thứ Sáu, các vết thương của Thánh mở miệng và rỉ máu, thánh sụt mất 10 pounds (4,5kg) từ 121 pounds (55kg) cân nặng bình thường. Đau đớn vô cùng trong tình thương yêu đồng cảm của mình, Therese vẫn hân hoan chờ những linh ảnh về Chúa hàng tuần này.

Tôi hiểu ra ngay cuộc đời kỳ lạ của thánh là dụng ý của Thiên Chúa cam đoạn với mọi tín đồ Cơ đốc giáo về tính xác thực lịch sử của cuộc đời và sự đóng đinh thập giá của Jesus như được ghi lại trong Tân Ước, và phô bày một cách cảm động mối gắn bó đời đời giữa vị Thầy xứ Galilée với các tín đồ của Ngài…..

CÂU CHUYỆN THỨ HAI VỀ THERESE NEUMANN, Lời kể của Adalbert Albert Vogl trong LỜI NÓI ĐẦU cuốn “Therese Neumann, nhân vật thần bí mang dấu thánh” (Therese Neumann, Mystic & Stigmatist)

“Chúng ta được Thánh Kinh bảo đảm rằng Giáo hội sẽ được nhận biết qua các phép lạ, và lời hứa của Đấng Cứu Thế của Giáo Hội luôn được hoàn tất trong mọi giai đoạn của lịch sử. Phép lạ thường xảy ra vào những giai đoạn nổi lên nhiều nghi ngờ nhất. Rõ ràng đó là câu trả lời của Thiên Chúa đối với nỗ lực của con người trong việc chối bỏ hoặc hạn chế quyền năng của Người, để đối phó với công việc do bàn tay Người làm ra. Phép lạ Lộ Đức đã làm cho những người theo chủ thuyết duy lý và những người ưa chế diễu ở thế kỷ 19 phải bối rối, và mọi chủ thuyết độc hại có thể tìm thấy thuốc giải độc qua hiện tượng lạ lùng, nó làm mất tác dụng của thuyết độc hại và đem lại niềm tin cho những người mong muốn được nhìn thấy sự thật và nhận ra được Tác Giả của sự thật, đằng sau những biến cố phi thường này.

“Sự kỳ diệu của việc được in năm dấu thánh và hiện tượng sống mà không cần đến sự ăn uống là một phần của sự kiện lịch sử xác thực của Giáo Hội xuyên qua hàng thế kỷ. Việc Đấng Cứu Thế in các Vết Thương cứu chuộc của Người trên thân thể những vị thánh, hay việc ban Bánh Thiêng cho những người được tuyển chọn để thay cho các thức ăn bình thường, những việc như thế không làm cho những người tin Chúa quá bỡ ngỡ hoặc băn khoăn lo lắng, và họ biết rằng có những kế hoạch của Chúa có thể nhận thức được vượt lên trên những định luật tự nhiên mù quáng và cứng nhắc.

therese-neumann-mystic-and-stigmatist-1.“Tại sao người ta phải nghĩ rằng Thiên Chúa đã tự trói tay Người lại, trói chính bàn tay đã tạo dựng lên vũ trụ đó? Việc Đấng Thần Khí, vốn quyền năng vô hạn mà lại bị bắt buộc phải tuân theo những định luật tự nhiên gắn liền với những trình độ của những sinh vật thấp kém, và vĩnh viễn không được thực hiện những khoản miễn trừ nào, là điều tuyệt đối vô lý. Đây là cách duy nhất làm cho những người có đầu óc duy vật phải kinh ngạc khi nhận ra rằng Thiên Chúa có quyền năng trên mọi sự kiện – những sự kiện mà họ cho rằng không thể thay đổi được và thuộc về những luật tuyệt đối không thể lay chuyển.

“Theo thống kê được thực hiện năm 1920, những người được Thiên Chúa tuyển chọn để mang Năm Dấu Thánh, đã lên tới trên 300. Thống kê này chỉ ghi chép những sự kiện đã được ghi lại và được điều tra mà thôi. Có lẽ thánh Phan-xi-cô thành At-si-si là trường hợp độc đáo nhất, vị được in Năm Dấu Thánh hai năm trước khi ngài qua đời năm 1224.

“Trong thế kỷ 20, có hai vị được in Năm Dấu Thánh nổi tiếng, đó là cha Pio thành Pietrelcina, Ý, ngài được in Năm Dấu Thánh từ năm 1918 cho đến khi qua đời năm 1968, và bà Therese Neumann, nước Đức được in Năm Dấu Thánh từ năm 1926 cho đến khi qua đời năm1962. Trong cả hai trường hợp, món quà huyền nhiệm của Thiên Chúa này đã làm tăng tiến đức tin nơi rất nhiều người và biểu lộ gía trị tinh thần của những đau khổ trong kế hoạch của Thiên Chúa. Qua cuốn sách này, rất nhiều người sẽ hiểu được đời sống của bà Therese Neumann, nhà huyền bí và vị được in Năm Dấu Thánh”.

Tiểu sử bà Therese Neumann:

Therese Neumann sinh vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh 08/04/1898, trong một ngôi làng nhỏ tại Konnersreuth, nước Đức, và là chị cả trong gia đình gồm 10 người con. Cha mẹ Therese thuộc tầng lớp nghèo, ông bà làm chủ một nông trại nhỏ, nhưng thu nhập không đủ cung cấp cho các nhu cầu của gia đình, nên ông Neumann phải làm nghề may để phụ cấp thêm. Cũng may là Therese Neumann, chị cả, là một người khỏe mạnh và có thể phụ giúp cha mẹ trông coi các em, nhất là sau khi ông Neumann được gọi nhập ngũ để phục vụ trong thế chiến thứ nhất.

Niềm khao khát của Therese là trở nên một Nữ Tu truyền giáo phục vụ tại miền nghèo đói ở Phi Châu. Nhưng một tai nạn trầm trọng xảy ra đã khiến Therese không thể đạt được mộng ước: Trong biến cố căn nhà của người chú bị cháy, bà đã hăng hái chữa cháy và bị ngã xuống từ trên cao, khiến bà bị bán thân bại liệt, cộng với chứng co bắp thịt chân rất nặng. Không sờn chí, bà quyết tâm khắc phục bệnh tật. Nhưng sự quyết tâm này lại đem đến cho bà một số tai nạn và thương tích khác. Kết quả, chứng co bắp chân bị nặng thêm; bà thường bị hôn mê bất tỉnh, có khi cơn hôn mê kéo dài đến vài ngày; tháng Ba, Therese bị mù hoàn toàn; vì bị bất toại, nên bà phải nằm mãi trên giường, do đó phát sinh chứng thối hoại thân thể, chứng bệnh nghiêm trọng tới mức để lộ các xương ra; luôn bị chứng buồn nôn, cho nên bà chỉ có thể uống chất lỏng để sống mà thôi…

Đau khổ bủa vây tứ bề, nhưng Therese đã dâng tất cả lên Thánh Tâm Chúa Giesu. Khả năng chịu đựng đau khổ của bà trong tinh thần tùng phục Thánh Ý Chúa là một phản ảnh đời sống đạo tuyệt vời của gia đình cha mẹ bà. Các thành viên trong gia đình thay phiên nhau đọc các sách về Chúa, về Đức Mẹ và các thánh cho bà nghe. Câu chuyện về Bông Hoa Nhỏ của Chúa Giesu (thánh Tê-rê-sa Hài Đồng) là một trong những câu chuyện lôi cuốn bà nhất. Thực thế, gia đình ông bà Neumann sống khiêm tốn, chăm chú tuân thủ giới luật Chúa và Giáo Hội, yêu thương giúp đỡ mọi người. Sau này khi Therese được mọi người mọi giới biết đến, cũng không thay đổi chút nào nếp sống khiêm tốn của họ, họ không nhận bất cứ khoản tiền biếu tặng nào của khách thăm viếng.

4Nhưng một ngày rất vui mừng đã đến với bà, đó là ngày Chúa Nhật 29-4-1923, ngày Giáo Hội tôn phong chân phước cho Nữ Tu dòng kín Tê-rê-sa Hài Đồng Giesu. Therese Neumann đã làm tuần chín ngày cho biến cố này, bà cũng trang hoàng hoa nến quanh tấm ảnh Nữ Tu Tê-rê-sa Hài Đồng mà cha bà đã cho cách đây ít năm. Trong ngày lễ tôn phong chân phước, bà nhận được một bông hồng do Tê-rê-sa Hài Đồng tung xuống như lời chị thánh đã hứa khi còn sống, đó là vào đúng lúc phong chân phước, mắt bà được mở ra, bệnh mù được khỏi hoàn toàn.

Vào ngày 17-5-1925, ngày chân phước Tê-rê-sa được tôn phong lên hàng hiển thánh, Therese Neumann nghe thấy giọng nói êm ái của thánh nữ:

– Therese, em không muốn được khỏe lại sao?

– Tất cả đều tốt cho con: được khỏe mạnh hay tiếp tục bệnh, ngay cả sự chết, tất cả đều là ý Chúa, Therese Neumann trả lời.

– Therese, em không vui nếu em được giảm bớt đau khổ hay sao, ít là có thể đứng dạy và đi lại được?

– Mọi sự đến từ Chúa đều làm cho con vui.

– Therese, chị sẽ cho em một niềm vui nhỏ. Giờ em có thể đứng dậy và đi lại được, nhưng em vẫn phải chịu đau khổ nhiều. Nhưng đừng sợ, chị đã giúp em trong quá khứ, thì chị cũng sẽ giúp em trong tương lai.

Trong khi thánh nữ nói, Therese cảm thấy như có đôi tay mạnh mẽ nâng bà ra khỏi giường. Bà lập tức được khỏi bệnh bất toại sau sáu năm rưỡi chịu đựng; cả chứng thối hoại thân thể cũng được lành lại, một lớp da mới mọc ra bao phủ các vết thẹo.

Therese Neumann được in Năm Dấu Thánh.

Vào sáng sớm thứ Sáu của tuần thứ nhất mùa chay 5-3-1926, Therese cảm thấy không được khỏe, nên bà nằm nghỉ trên giường. Sau đó cô bị hôn mê. Tới gần trưa, bà tỉnh lại và ngạc nhiên vì phía bên trái của áo ngủ của bà bị dính máu. Bà khám phá thấy rằng vết máu rỉ ra từ một vết thương phía trên của trái tim. Bà dùng miếng vải lau máu và dấu dưới nệm, bà quyết định không nói với ai vì nghĩ vết thương sẽ lành lại mau chóng.

5Sau đó bà trở lại với các công việc thường nhật, cho đến tối thứ Năm tuần sau, bà lại cảm thấy không khỏe, do đó bà buộc phải nằm nghỉ trên giường. Sáng thứ Sáu, bà xuất thần thấy thị kiến. Điều làm bà rất ngạc nhiên đó là vết thương bên trái lại chảy máu. Bà liền nói cho em gái là Creszentia biết chuyện này. Thứ Sáu tuần thứ ba mùa chay, hiện tượng này lại xảy ra, nhưng bà chỉ cho đó là chuyện bình thường, nên không quan tâm lắm.

Sáng thứ Sáu tuần thứ tư 26-3, sự kiện lại diễn ra như ba lần trước. Trong lúc xuất thần, một vết thương xuất hiện trên lòng bàn tay trái bà. Bây giờ thì mọi sự đều không thể dấu được nữa, cả miếng vải thấm máu được dấu dưới nệm cũng bị khám phá. Mọi người trong gia đình đều lo cho sức khỏe của bà; nhất là họ kinh ngạc vì các vết thương và các thị kiến bà nhận được trong ba thứ Sáu mùa chay. Thứ Sáu tuần thứ nhất, bà thị kiến thấy Chúa Giesu và các Tông Đồ trong Vườn Cây Dầu; thứ Sáu tuần thứ hai, bà thấy thị kiến như lần trước, nhưng thêm cảnh Chúa bị đánh đòn và bị đội mạo gai, thứ Sáu tuần thứ tư, bà thấy Chúa Giesu vác Thánh Giá và bị ngã lần thứ nhất.

Therese được thị kiến trọn cuộc khổ nạn của Chúa từ vườn Cây Dầu cho tới cái chết của Người trên Thập Giá, bắt đầu từ giữa đêm thứ Năm tuần Thánh 1926, và chấm dứt bằng cái chết của Chúa trên Thập Giá vào lúc ba giờ chiều thứ Sáu tuần Thánh. Sự đau đớn của Therese chịu thật ghê gớm. Các Vết Thương của Chúa cũng in nơi hai tay hai chân bà và chảy thật nhiều máu; cả đôi mắt bà cũng đầm đìa máu, chảy dài xuống dưới cằm, cổ và ngực.

Thời giờ trôi đi và cơn đau đớn gia tăng, và đạt tới tột đỉnh vào lúc ba giờ chiều. Thế rồi mọi sự chấm dứt, Therese ngã xuống trên gối. Căn cứ theo Linh Mục linh hướng của bà là cha Naber, cũng như những thử nghiệm của các bác sĩ, thì bà đã chết với Chúa vào lúc ba giờ chiều. Các cuộc thử nghiệm cho thấy, tim bà ngừng đập, các mạch máu ngưng lại và bà ngừng thở. Bà nằm bất động trong khoảng thời gian độ 45 phút. Nếu trong tình huống bình thường thì bà đã được tuyên bố là đã chết thực sự. Sau 45 phút coi như đã chết, Therese từ từ tỉnh lại, khoảng một tiếng đồng hồ sau, Therese trở lại trạng thái bình thường.

Therese được thông phần đau khổ với Chúa trong nhiều thứ Sáu về sau này, nhưng lần đáng chú ý xảy ra vào Thứ Sáu 5-11-1926, Therese nhận 9 vết thương trên đầu gây lên do Mạo Gai, và các vết thương trên vai và lưng, cộng với các vết thương trên hai tay và hai chân, như thế là các Dấu Thánh của Chúa đã in trên thân thể bà và kéo dài cho đến khi bà qua đời, tổng cộng độ 45.

3 (3)Số lượng máu chảy ra từ các vết thương thay đổi tùy từng đợt, nhưng cao điểm là vào mùa chay, nhất là vào thứ Sáu Tuần Thánh. Một đặc điểm là dù bà nằm trên giường, mười ngón chân hướng thẳng lên trần nhà, nhưng khi máu chảy ra từ hai mu bàn chân của bà lại không tuân theo luật tự nhiên, thay vì chảy xuống mắt cá chân, thì máu lại chảy ngược lên các ngón chân, giống như khi Chúa bị đóng đanh trên Thập Giá. Máu chảy ra từ hai tay cũng lạ lùng tương tự. Trong lúc xuất thần nhận thị kiến, khi bà khóc vì Chúa bị cáo gian và bị đối xử tàn tệ, thì nước mắt liền biến thành máu ngay khi Chúa bị chảy máu bởi sự hành hạ.

Sự đau đớn của bà thì thường xuyên và khốc liệt hơn người ta có thể tưởng tượng. Có khi bà chịu đau đớn vài lần trong một ngày và bà đã tình nguyện xin Chúa để cho bà chịu đau khổ để cầu cho nhu cầu của những người khác như: các linh hồn trong luyện tội, các người tội lỗi, các bệnh nhân, người hấp hối, người có ý định tự tử, cho sự trở lại của nhiều người.

Vết thương nơi hai tay của Therese luôn là nguồn đau đớn cho bà khi phải làm các công việc thường nhật, cũng như vết thương nơi hai chân làm bà phải bước đi trong đau đớn. Nhưng cho dù luôn bị đau đớn vì các vết thương, Therese cũng không bao giờ sao lãng bổn phận; ngoài chuyện phải làm nhiều công việc khác nhau, bà còn dành nhiều thời giờ để cầu nguyện. Và vì bà không cần ngủ, hoặc nhu cầu ngủ của bà rất ít, bà chỉ nghỉ độ 30 phút vào một vài ngày nào đó thôi, cho nên ban đêm bà thường tới nhà thờ để quét dọn nhà Chúa sạch sẽ, xếp đặt mọi sự ngăn nắp, cùng trang hoàng bàn thờ với những bình hoa tươi thật đẹp. Nhờ đó, nhà thờ giáo xứ luôn sạch sẽ và không bao giờ thiếu hoa tươi đủ loại!

Bí tích Thánh Thể và sự kiện không ăn không uống của bà Therese Neumann.

Từ năm 1922 cho đến khi qua đời 1962, Therese không ăn bất cứ loại thức ăn nào, và từ năm 1926, bà cũng không uống nước nữa. Của ăn duy nhất nuôi sống bà chính là Mình Thánh Chúa mà bà lãnh nhận.

Từ nhỏ, Therese có thói quen rước lễ hàng ngày. Chính vì nhu cầu tuyệt đối cần rước Mình Thánh Chúa để giúp bà sinh tồn này, mà vào những ngày bà phải chịu đau đớn đến độ bà không thể rước Mình Thánh Chúa được, thì nhiều khi Thánh Thể mà bà rước ngày hôm trước lại hiện lên trên lưỡi của bà để bà lãnh nhận. Chính vì vậy mà nhiều người đã gọi bà là “Nhà Tạm sống”, trong đó có hồng y Michael Von Faulhaber thuộc giáo phận Munich, ngài là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức, trong một bài giảng mùa chay tại vương cung thánh đường thánh Micae, ngài nói “Bà Therese Neumann là một Nhà Tạm sống”. Hoặc bà có thể xin với cha Naber cho bà rước Mình Thánh Chúa riêng, sau khi cơn đau đớn chấm dứt, và dĩ nhiên là cha Naber chấp thuận.

Trong lúc rước lễ, bà Therese thường được thấy thị kiến Chúa Giesu mặc áo dài trắng, mỉm cười dịu dàng tiến về phía bà. Therese dơ tay về phía trước, bà gần như được nâng lên khỏi ghế để tiến đến với Chúa. Quên hết mọi sự chung quanh, bà há miệng, và khi vị linh mục trao Mình Thánh Chúa cho bà, Mình Thánh Chúa liền biến tan trên lưỡi bà mà không cần động tác nuốt xuống của bà. Trong vòng 50 năm cha Naber coi sóc giáo xứ Konnersreuth, thỉnh thoảng xảy ra trường hợp cha phải đi giúp kẻ liệt, nên Thánh Lễ sáng hôm đó phải cử hành trễ. Nhưng bà Therese thì hầu như không thể chờ đợi lâu, lòng khao khát rước Thánh Thể khiến bà ra như sắp chết vì đói. Trong trường hợp này chính Chúa đem một Bánh Thánh đã được truyền phép từ Nhà Tạm đến cho bà chịu. Biết như vậy, cho nên cha Naber luôn để dành cho bà một Bánh Thánh trong Nhà Tạm.

6Trong cuốn sách nhan đề “Đời sống Công Giáo huyền nhiệm” viết rằng hiện tượng này chỉ xảy ra nơi những người Công Giáo thánh thiện mà thôi. Cuốn sách nêu ra một số trường hợp như thánh Nicholas of Flue sống mà không dùng tới thức ăn và nước uống trong 20 năm,; Đấng đáng kính Anne Catherine Emmerich sống mà không cần tới thức ăn 12 năm trước khi qua đời; Chân phước Angela of Foligno: 8 năm; Elizabeth von Reute: hơn 15 năm; thánh Lidwina of Schiedam: 12 năm; Dominika Lazzari và Louise Lateau, mỗi vị 14 năm. Thức ăn duy nhất của các ngài là Mình Thánh Chúa.

Một lần, vị linh mục phó xứ hỏi bà Therese:

– Bà không cảm thấy đói à?

– Cha biết là con không ăn, bà trả lời.

– Bà muốn vĩ đại hơn Đấng Cứu Thế chăng? Tại sao khi còn tại thế Ngài lại ăn uống như chúng ta?

Bà Therese cười lớn và trả lời:

– Đấng Cứu Thế có thể làm được mọi sự. Cha không biết Ngài là Đấng Toàn Năng hay sao?

Rồi bà nhấn mạnh: Thưa cha, kết quả của sự không có gì vẫn là sự không có gì. Con không sống nhờ cái không có gì. Con sống nhờ Đấng Cứu Thế. Người đã tỏ cho chúng ta biết rằng: “Mình Ta thật là của ăn.” Tại sao điều này lại không là một trường hợp có thể xảy ra, nếu đó là ý Chúa?

Mặc dù bà Therese không ăn uống gì từ mùa Xuân 1922, và bà cũng không ngủ vào ban đêm, nhưng bà vẫn khỏe mạnh và lên ký đều đặn. Bà là một phụ nữ to lớn, năm 1927 bà cân nặng 55 ký, năm 1945: 84 ký; năm1953: 98 ký.

Những thị kiến của bà Therese Neumann.

Bà Therese được Chúa ban cho rất nhiều thị kiến. Ngoài việc bà được thấy Chúa hàng ngày khi rước Thánh Thể, bà còn được thấy Chúa trong rất nhiều trường hợp khác nữa, nhất là những thị kiến về cuộc khổ nạn của Người vào các ngày thứ Sáu. Cũng thế, bà được thị kiến thấy Đức Mẹ, và hàng ngày bà được thấy giờ chết của các thánh, thấy một hay nhiều hơn mỗi ngày tùy ở lịch phụng vụ của Giáo Hội. Như thế là một năm bà có 365 thị kiến, mỗi ngày một thị kiến, đôi khi trong một ngày bà nhận được ba thị kiến hay nhiều hơn. Thị kiến xảy ra đôi khi rất ngắn, chỉ độ vài phút, đôi khi rất lâu.

7Khi bà Therese thị kiến về giờ chết của một vị thánh nào đó, bà được hội nhập vào đời sống của vị thánh đó, bà cảm thấy nóng hay lạnh tùy ở mỗi trường hợp, bà thấy được quang cảnh chung quanh, cảm được nỗi đau đớn hay vui mừng của vị thánh lúc đó, ngửi được hương thơm các thánh đã ngửi được. Một lần, bà kể với một nhóm người, trong đó gồm một số linh mục về thị kiến mới nhất của bà về thánh nữ Maria Ma-đa-len-na. Bà tả thánh nữ đã đổ dầu thơm lên mình Chúa Giesu như thế nào, và đã lau chân Chúa làm sao; bà cũng ngửi được mùi thơm đó nữa.

Vào ngày lễ các Thánh, bà Therese trải qua cuộc xuất thần kéo dài 24 tiếng đồng hồ, trong đó bà được thấy và thăm viếng nhiều vị thánh trên Thiên Đàng. Hôm sau, lễ Các Đẳng, bà cũng trải qua cuộc xuất thần dài 24 tiếng đồng hồ, trong đó bà được thấy các linh hồn nơi Luyện Ngục. Các linh hồ trong Luyện Ngục thường hiện đến với bà, đặc biệt vào ngày lễ Các Đẳng. Nhiều lần trong năm, bà Therese được các thiên thần thuộc nhiều cấp bậc tới thăm, nhất là các thiên thần bản mệnh.

Những đặc sủng bà Therese Neumann nhận được.

Ngoài hiện tượng đôi khi bà ở hai nơi trong một lúc, cùng những điều khác thường nêu trên, bà Therese còn nhận được nhiều đặc sủng, dưới đây là một vài trường hợp:

– Chữa lành bệnh: Một người đàn ông đã phải chịu đau khổ nhiều năm vì chứng bại liệt toàn thân, ông được vợ đưa tới gặp bà Therese. Bà hết lòng khuyến khích họ, đặc biệt bà nhấn mạnh đến cả hai lợi ích của sự đau khổ và lời cầu nguyện. Trước khi vợ chồng ra về, bà đề nghị họ cùng với bà làm tuần chín ngày và dâng các đau khổ của mỗi người để cầu cho bệnh nhân. Đến ngày thứ bảy của tuần chín ngày, người chồng được hoàn toàn khỏi bệnh.

Liền sau đó, hai vợ chồng trở lại Konnersreuth để cám ơn bà Therese. Họ tặng bà một tượng Thánh Giá bằng đá cẩm thạch Thụy Điển rất qúi. Thánh Giá này hiện được gắn trên ngôi mộ bà Therese ở nghĩa trang địa phương.

– Biết chuyện quá khứ và tương lai: Năm 1930, người em trai của bà Therese là Ferdinand tới Thụy Sĩ để chiếu cho một số bạn hữu xem cuốn phim thu hình về lần xuất thần hôm thứ Sáu của bà, nhưng anh đã bị tổ chức Nazi, Đức Quốc Xã theo dõi. Anh bị bắt giam vô cớ, cuốn phim bị tịch thu và hủy đi. Sau đó ít lâu, một người hỏi bà về số phận của cuốn phim đó, bà liền trả lời: “-, cuốn phim đó đã bị xóa bỏ đi hết rồi.”

Năm 1941, ông Freiherr von Aretin, một học giả, một nhà văn và cũng là người bạn thân của bà Therese, viết thư cho bà để xin được gặp bà vào tháng Bảy. Bà hồi thư khuyên ông đừng tới trước ngày 15 tháng Tám. Ông không hiểu lý do rời lại. Độ một tuần lễ sau, bà, cha Naber và một bác sĩ lái xe tới Eichstatt để tham dự Thánh Lễ mở tay của một tân Linh Mục. Khi trở về, bà bị chứng tai biến mạch máu não và bị bán thân bại liệt phía bên phải. Các bác sĩ đã tận tình cứu chữa nhưng vô hiệu. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời 15 tháng Tám, một vài Linh Mục bạn của cha Naber tỏ ý muốn được gặp bà Therese. Bà Therese đồng ý, và cha Naber chở bà tới nhà xứ. Đến 12 giờ trưa, bà xuất thần, tay trái bà vươn tới trước, phần thân thể phía trái nhấc lên khỏi gối. Bà mỉm cười hướng về phía trước như thể bà đang đối diện với đấng nào đó. Rồi bất thần bà ngã lại trên gối, cùng lúc đó chứng tai biến mạch máu não được khỏi hẳn. Bà giải thích rằng, bà đã thấy Đức Mẹ được hộ tống bởi hai thiên thần và Đức Mẹ đã chữa lành bệnh cho bà. Và giờ thì ông Freiherr đã hiểu!

8Một lần, bà Therese tới thăm cha Michael Rackle, trong cuộc đàm đạo, bà nói có ngày cha sẽ là Giám Mục giáo phận Eichstatt. Ít năm sau, Giám Mục Leo của giáo phận đó qua đời và Linh Mục Conrad von Preysing được phong Giám Mục cai quản giáo phận Eichstatt. Mọi người có vẻ đều cho lời tiên đoán của bà Therese là không đúng, nhưng ba năm sau Đức Thánh Cha cử đức Giám Mục von Preysing cai quản giáo khu Berlin, sau đó ít lâu ngài được tấn phong Hồng Y. Và cha Michael Rackl trở thành Giám Mục địa phận Eichstatt.

– Một ngày vào tháng Hai 1948, bà Therese có chuyện phải làm ở Tirschenreuth. Đó là một ngày rất lạnh, cho nên bà thuê xe taxi để đi. Khi trở về, xe taxi bất ngờ bị hết ga nên không thể chạy tiếp. Bác tài rất bối rối lo âu vì xe phải nằm ụ giữa đường vào lúc thời tiết giá lạnh. Rồi Chúa hiện ra và nói với bà biểu bác tài cứ đề máy chạy tiếp. Không còn cách nào khác, bác tài đành thử đề máy, và kết quả là xe đã đưa bà về tới nhà mà không cần chút ga nào. Sau đó thì xe không thể tiếp tục cho đến khi xe được vô ga!

– Sau cùng là ơn cảm hóa người tội lỗi và đưa nhiều người trở lại với đạo Công Giáo. Danh sách những người trở lại này thì rất nhiều, đây chỉ xin nêu một thí dụ: Anh Bruno Rothschild, một người Do Thái ngụ ở Vienna. Tình cờ anh đọc được một bài viết về bà Therese Neumann và anh quyết định đến Konnersreuth xem sao. Anh nhờ một linh mục Công Giáo viết thư giới thiệu với Cha Naber để xin được gặp bà Therese. Ước muốn của anh được đáp ứng. Trong vòng mấy tuần lễ đi đi về về từ Vienna tới Konnersreuth, anh thực sự bị đánh động bởi tất cả những gì anh được chứng kiến, sau cùng anh xin được trở lại đạo Công Giáo, cho dù có sự phản đối dữ dội của gia đình, cha mẹ anh tuyên bố sẽ từ bỏ và truất quyền thừa kế của anh, nếu anh theo đạo Công Giáo. Không những thế, anh còn xin đi tu và trở thành một linh mục Công Giáo nhiệt thành!

Những món quà huyền nhiệm bà Therese Neumann nhận được đã ảnh hưởng đến rất nhiều người thuộc mọi cấp bậc trong xã hội. Thí dụ, vào những năm 1920 và 1930, Giám Mục Schrembs thuộc giáo phận Cleveland, Ohio rất thường xuyên tới thăm bà Therese, và nhiều lần ngài công khai xác nhận rằng bà Therese đã từng nói cho ngài về nhiều trở ngại trong địa phận của ngài. Bà nói ra từng chi tiết chính xác của những trở ngại đó và góp ý để ngài điều chỉnh. Theo đức giám mục Schrembs, thì bà Therese trong nhiều dịp, đã nói với ngài những điều mà chỉ có ngài và Chúa biết được mà thôi. Ngay cả lần thứ nhất tới thăm bà, bà lập tức cho biết ngài là ai và từ đâu tới! Bà góp ý với ngài về việc điều hành giáo phận. Ngài tỏ vẻ rất xúc động khi đề cập đến những vấn đề này.

Mỗi ngày có nhiều vị chức sắc trong giáo hội và xã hội tới thăm bà, gồm Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, bác sĩ, luật sư, giáo sư, chính khách. Đó là chưa kể mỗi ngày có đến hàng trăm người từ khắp nơi trên thế giới đến để mong được gặp hay ít ra được nhìn thấy bà. Nhất là vào những ngày thứ Sáu, ngày bà được thông phần khổ nạn của Chúa, thì số người hiện diện lên từ 5000 đến 7000 người, đôi khi 15,000 người. Từ sau 1945, số lính Mỹ tới Konnersreuth ước lượng có tới nửa triệu. Trong lúc bà ngất trí thông phần khổ nạn của Chúa, thì người ta phải xếp hàng hai để lên bậc thang dẫn đến căn phòng của bà, mọi người đi từ từ, nhưng không được ngừng lại.

9Mặc dù bà rất yêu mến mọi người, nhưng sự kiện đông đảo người đến mỗi ngày trong suốt hơn 36 năm, đã trở nên gánh nặng cho bà và gia đình. Bà luôn nhấn mạnh rằng người ta nên siêng năng đến viếng Mình Thánh Chúa trong nhà thờ địa phương của họ, như thế họ sẽ được ơn ích nhiều, hơn là đến Konnersreuth.

Bà Therese cũng viết rất nhiều thư mặc dù việc này có gây nhiều đau đớn cho bà, do Vết Thương nơi lòng bàn tay gây nên. Giữa năm 1952 và 1962, bà đã viết tổng cộng 1500 lá thư. Thư gửi đến cho bà đến từ khắp nơi trên thế giới. Khi ở trong trạng thái bình thường, bà mở thư ra và nhìn vào chữ ký, lập tức bà biết được nội dung lá thư, dù nó được viết bằng ngôn ngữ gì. Nếu thư được đặt bên cạnh trong lúc xuất thần, bà lập tức hiểu biết nội dung lá thư mà không cần mở phong bì ra.

Dự án cuối cùng và cái chết của bà Therese Neumann.

Một thời gian ngắn sau khi linh mục tiến sĩ Rudolf Graber được phong giám mục giáo phận Regensburg, ngài viết cho bà Therese một lá thư xin bà cầu nguyện và dâng các đau khổ cho dự án lập một nhà dòng mới, chủ yếu cầu nguyện theo ý chỉ của ngài và cho các nhu cầu của địa phận.

Bà Therese rất vui mừng với dự án này. Bà không những cầu nguyện, dâng hy sinh, mà bà con vận động mọi người hỗ trợ để dự án này sớm thành tựu. Lòng nhiệt thành với công việc của bà đã giúp cho dự án được tiến triển rất tốt đẹp. Nhưng khi dự án xây dựng nhà dòng mới gần thành tựu, thì tình trạng sức khỏe của bà đột nhiên bị suy giảm trầm trọng. Do đó, cha Naber đã dâng Thánh Lễ tại bàn thờ riêng của bà (tất nhiên là cha đã về hưu). Cha Naber, với tư cách là cha linh hướng của bà, hỏi nếu sức khỏe của bà không tốt lại, thì sự thể sẽ như thế nào. Bà trả lời: “Thứ Ba tuần sau sẽ có giải quyết.”

Thì ra thứ Ba tuần sau chính là lần rước Thánh Thể cuối cùng của bà. Đó là lần rước Thánh Thể huyền nhiệm: Mình Thánh Chúa xuất hiện trên lưỡi bà! Chính Chúa Giesu trao Mình Thánh cho bà chịu. Thế rồi bà lâm cơn hôn mê hoàn toàn. Lúc đó là 10.30 sáng. Bà Marie em bà thấy vậy liền điện thoại cho cha Naber. Khi ngài bước vào phòng, thì bà Therese đã về với Chúa rồi.

Linh mục Schumann, cha xứ họ đạo Konnersreuth ban bí tích cuối cùng cho bà. Không ai trong phòng tin bà Therese đã chết thật sự. Trong đời bà, bà đã chết đến trên trăm lần, nhiều lần trong những lần đó, người ta cho là bà đã lìa bỏ thế gian về với Chúa, và nến cũng đã được thắp lên. Nhưng lần này, sau khi chờ vài tiếng đồng hồ mà bà vẫn không tỉnh lại, họ liền mời ba bác sĩ tới xét nghiệm. Các bác sĩ xác nhận là bà đã chết, hôm đó là ngày 18/09/1962.

Tin bà Therese Neumann qua đời đã lan truyền khắp châu Âu và toàn thế giới. Các bác sĩ được yêu cầu trông chừng và xét nghiệm thân thể bà, bắt đầu từ thứ Ba 18 tháng Chín cho đến thứ Bảy trước khi thi thể bà được đưa vào quan tài và đóng lại. Xác nhận của các nhà khoa học trong lần xét nghiệm lần cuối trước khi an táng là: không có mùi vị của sự chết, không có dấu của sự chết, và thân thể bà vẫn mềm mại, dù không còn thở nữa, nhưng môi bà vẫn tươi và ướt. Cũng trong ngày thứ Bảy này, các bác sĩ còn muốn khám nghiệm bên trong cơ thể bà, nên họ đã dùng một dụng cụ dài để đâm qua các bộ phận bên trong, kết quả: không có dấu hiệu của sự thối rữa, của sự chết, máu và các mô vẫn trong tình trạng tốt.

I-Grande-14127-therese-neumann-l-extraordinaire-mystique-de-konnersreuth.netĐám tang của bà Therese đã diễn ra rất trọng thể. Nhiều Giám Mục, chức sắc trong Giáo Hội, viên chức chính quyền và trên 10,000 người tham gia đám tang bà Therese Neumann.

Sau cái chết của bà Therese, có rất nhiều đơn thỉnh nguyện được gửi tới Đức Giám Mục giáo phận Regensburg để xin tiến hành cuộc điều tra về sự kiện ở Konnersreuth. Những yêu cầu như vậy không chỉ đến từ nhiều vị trong hàng giáo phẩm và Linh Mục Tu Sĩ, nhưng còn đến từ rất nhiều giáo dân trên khắp thế giới nữa. Hồng Y Bea Sj. không lâu sau ngày qua đời của bà Therese, trong một số dịp đã yêu cầu là việc điều tra nên được tiến hành sớm. Thủ tục điều tra về trường hợp bà Therese đã được chính thức bắt đầu vào năm 1971. Giám Mục Rudolf Graber của giáo phận Regensburg đã cử Linh Mục tiến sĩ Carl Strater Sj. cầm đầu phái đoàn điều tra.

Tới nay, Tòa Giám Mục Regensburg đã nhận được hàng chục ngàn thỉnh nguyện thư xin tiến hành thủ tục phong chân phước cho bà Therese Neumann.

Buổi phỏng vấn bà Therese Neumann

Dưới đây là bài phỏng vấn bà Therese Neumann của ông Harnett, chủ bút tờ báo Air Force của quân đội Mỹ đóng ở Đức. Ông Harnett nói:

“Tôi ở Đức được gần một năm, và được chỉ định làm chủ bút tờ Air Force. Khi đọc bản tin tường thuật về bà Therese Neumann từ tờ báo Time, tôi rất tò mò muốn tìm hiểu về người phụ nữ đặc biệt này. Vả lại, tôi cũng muốn tìm kiến một đề tài hào hứng về con người cho tờ báo quân đội, nên tôi đã vào thư viện của trại không quân ở Landsberg để tìm tài liện nói về bà. Tôi cũng liên lạc để xin có được buổi phỏng vấn bà. Tôi may mắn được bà chấp thuận.

“Trước khi gặp bà, tôi được cho biết là bà Therese Neumann không đồng ý cho bất cứ ai chụp hình bà. Do đó, tôi đã cố tình dấu một máy chụp Minox loại nhỏ vào trong bìa của cuốn sổ ghi chép, và sẽ “bí mật” chụp một số hình về bà.

“[…] một vài phút sau, một bà ra mời chúng tôi vào phòng bà Therese Neumann. Bà Therese Neumann thân mật chào và mời chúng tôi ngồi. Sau khi người thông dịch giới thiệu xong. Tôi xin được bắt đầu phỏng vấn:

Hỏi (H): Thưa bà Therese Neumann, bà có thể cho chúng tôi biết về bà và gia đình của bà không?

Therese Newmann (TH): Tôi là con cả trong gia đình có 10 người con. Tôi có năm em gái và 4 em trai. Tôi sinh ngày 9.4.1898. Hôm đó là Thứ Sáu Tuần Thánh. Gia đình chúng tôi nghèo. Cha tôi là một thủy thủ và cũng làm thêm một chút nghề nông trại. Cha chúng tôi phải rất vất vả để nuôi nấng chúng tôi, cho đến khi chúng tôi lớn đủ để giúp đỡ người.

H: Bà chưa và không bao giờ lập gia đình. Điều này có đúng không?

TH: Đúng. Tôi muốn trở thành một Nữ Tu truyền giáo. Nhưng lần đầu tiên tôi có ý tưởng này, thì cha tôi lúc đó đang ngoài mặt trận, và xin tôi ở nhà cho đến khi người trở về, vì tôi là con cả. Khi cha tôi trở về từ chiến tranh, tôi bị bệnh nằm trên giường, và không thể học, để trở thành một Nữ Tu truyền giáo.

H: Tôi hiểu các dấu thánh bà đang mang, xuất phát từ những bệnh tật bà có trong giai đoạn đầu của cuộc đời bà?

TH: Phải, tôi đã gặp nhiều tai nạn và bệnh tật. Khi tôi được 20 tuổi, ngôi nhà của người hàng xóm bị cháy, và có nhiều người chạy tới cứu giúp. Tôi cũng tới và làm công việc chuyền các sô nước cho một người đàn ông, để ông chữa lửa. Lửa cháy thật lâu, và chúng tôi phải làm việc rất vất vả. Sau một số lần chuyền sô nước, tôi đột nhiên cảm thấy đau nơi lưng, và tôi rất đau đớn khi phải đứng thẳng lên.

Một vài ngày sau, tôi trượt té nơi bậc xuống hầm rượu ở nhà. Đầu tôi đụng mạnh xuống nền xi măng. Khi tôi tỉnh lại, tôi hầu như không nhìn thấy gì nữa.

H: Bà có ý nói tai nạn đã khiến bà không nhìn thấy gì nữa?

TH: Hầu như không thấy gì nữa. Rồi năm tháng sau, tôi bị ngã lần thứ hai từ cây thang ở chuồng ngựa. Sau lần ngã này, lưng tôi bị đau trở lại. Đôi khi tôi bị bất tỉnh hàng giờ, và đôi khi nhiều ngày. Chẳng bao lâu, chân tôi bị bại liệt, và tới tháng 3.1919, tôi bị mù hoàn toàn và nằm liệt giường.

H: Người ta nói, bà ăn chay bằng cách không ăn không uống từ năm 1926.

Silhouette of Jesus Christ crucifixion on cross on Good Friday Easter

Silhouette of Jesus Christ crucifixion on cross on Good Friday Easter

TH: Không hẳn là ăn chay. Ông thấy đó, vào năm 1919 khi tôi hoàn toàn bị liệt giường, tôi cảm thấy không thể nuốt được thức ăn. Cho nên bác sĩ nói tôi chỉ ăn bằng chất lỏng. Rồi đến năm 1923, tình trạng bại liệt lan tới cuống họng của tôi. Tới năm 1926, tôi không thể dùng được bất cứ loại thức ăn gì, và tình trạng này kéo dài tới ngày nay.

H: Xin bà cho chúng tôi biết khi nào bà bắt đầu nhận dấu thánh?

TH: Trong nhiều năm bị liệt giường, tôi đã có những thị kiến về thánh nữ Terêsa Hài Đồng (gọi cách thân mật là Bông Hoa Nhỏ). Trong một thị kiến, thánh Terrêsa hỏi tôi: “Hỡi Resl [tên của bà], em có muốn được khỏe lại không?” Tôi trả lời “Bất cứ điều gì tốt: sự sống, sự chết, sức khỏe hay bệnh tật. Con chỉ muốn điều Chúa muốn”.

H: Tình trạng sức khỏe của bà có khá hơn không?

TH: Từ đó, vào mỗi ngày lễ kính thánh Têrêsa HĐ, sức khỏe của tôi được thấy mỗi lúc một khá hơn.

H: Và thị kiến có lại nữa không?

TH: Ngày 29.4.1923 là ngày Đức Thánh Cha Pio IX tôn phong Chân Phước cho Bông Hoa Nhỏ, mắt tôi được sáng trở lại.

H: Còn bệnh bất toại thì sao?

TH: Hai năm sau, khi Đức Thánh Cha phong thánh cho thánh Têrêsa Hài Đồng Giesu, thì bệnh bất toại của tôi biến mất. Chứng thối rữa vì nằm liệt giường biến mất. Các vết thương và vết bầm tím nơi khủyu tay trái, đầu gối chân trái và hông bên trái [gây lên vì nằm liệt giường] tất cả đều biến mất. Lớp da mới mọc lên nơi các vết xẹo.

H: Dấu thánh xuất hiện lần dầu tiên vào giai đoạn này?

Therese-Neumann Status_Konnersreuth

Tượng nữ thánh Therese Newmann tại làng Konnersreuth, Bavaria, Đức

TH: Trong mùa Vọng năm 1926, tôi có thị kiến về Chúa Giesu trong Vườn Cây Dầu. Đồng thời, tôi cảm thấy đau nhói nơi ngực, và tôi cảm thấy sự gì đó nóng chạy xuống phía bên trái của thân mình tôi. Đó là máu. Máu chảy ra từ phía bên trái. Tôi rất sợ khi nghĩ tôi bị một chứng bệnh mới. Nên tôi quyết định không nói cho cha mẹ tôi. Rồi ngày thứ Sáu tiếp sau, tôi được thị kiến cảnh Chúa bị hành hạ, và vết thương bắt đầu chảy máu trở lại.

Vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, trên mu hai tay và hai chân của tôi xuất hiện những vết thương mở ra. Cha Naber được mời tới để cho tôi chịu các Bí Tích sau hết, vì mọi người đều nghĩ tôi sắp chết. Máu ngừng chảy một lúc, nhưng chỗ bị loét ra thì không lành lại.

H: Các vết thương chỉ có ở bên ngoài, hay đâm hẳn qua chân tay bà?

TH: Vào năm 1927, các vết thương đâm thủng tay chân tôi. Các vết thương cũng xuất hiện nơi lòng bàn tay và lòng bàn chân tôi nữa.

H: Và bà mang các vết thương đó cho tới nay?

TH: Đúng vậy.

H: Cha mẹ bà có biết tất cả sự việc này không?

TH: Ngay khi các ngài khám phá ra, các ngài liền gọi cha Naber tới nhà và chỉ cho ngài xem các vết thương. Ngài nói, các vết thương thì giống như khi Chúa bị đóng đanh.

H: Thưa bà Therese Neumann, bà nói, bà không ăn và không uống từ năm 1926. Có bao giờ bà cảm thấy đói không?

TH: Tôi hoàn toàn không muốn ăn. Tôi tin tưởng đó là ý muốn Thiên Chúa để tôi không nên ăn hoặc uống.

H: Xin cho tôi biết, Bà có kinh nghiệm về những vận hành của ruột bà không?

[đến đây, người thông dịch do dự. Tuy nhiên, bà Therese Neumann hiểu được ý muốn hỏi, nên bà đã trả lời]

TH: Ý ông muốn nói là tôi có đi vệ sinh không chứ gì? Không, tôi không đi vệ sinh từ năm 1930.

H: Tôi không hiểu lắm. Bà nói, bà ngưng ăn uống từ năm 1926. Bây giờ bà nói, bà không đi vệ sinh từ năm 1930. Bà có thể giải thích giai đoạn từ 1926 tới 1930, là giai đoạn bà đi vệ sinh bình thường, dù bà không ăn uống, không?

[Bà mỉm cười và nhún vai]

stigmata751 copyTH: Thiên Chúa có thể làm được mọi sự.

H: Bà có kinh nguyệt đều không?

[một lần nữa, người thông ngôn lưỡng lự, và lắp bắp chuyển dịch. Rõ ràng là anh rất bối rối].

TH: Tôi không có kinh nguyệt từ năm 1930.

H: Từ năm 1926, sức nặng của bà có thay đổi không?

TH: Không, vì hầu như lúc nào cũng như nhau. Đó là, ngoại trừ những cơn ngất trí vào thứ Sáu, khi tôi bị chảy mất từ 1.5 lít tới 2 lít máu, và bị mất từ 1.4 ký tới 1.8 ký, nhưng sức nặng trở lại bình thường rất nhanh chóng.

H: Thưa bà, bà có tin các dấu thánh này là một phép lạ không?

TH: Dĩ nhiên rồi, nếu không thì đó là cái gì?

Trước khi chúng tôi ra về, bà nói thêm như thể để cảnh giác tôi: “Có nhiều điều xấu viết về tôi. Tôi tin ông chỉ viết điều tốt lành”. Tôi trả lời, “Tôi sẽ viết về những gì tôi biết là sự thật”.

Trong lúc phỏng vấn, tôi đã bí mật chụp vài tấm hình về bà, cho nên bà không biết. Tuy nhiên, khi phim được đem đi rửa, thì không có tấm hình nào cả. Rõ ràng là có đủ ánh sáng trong phòng để loại máy ảnh của tôi có thể hoạt động tốt!?

Bình luận của PVHg’s Home

pqj02IIXYiGUu4OnP3C6HKovDCA

Hiện tượng mang dấu thánh của Nữ Thánh Therese Neumann không phải là duy nhất. Nhiều trường hợp tương tự ĐÃ xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Gần đây nhất là trường hợp nữ tín đồ Công giáo Julia Kim, người Hàn Quốc, như đã được ghi lại trong video ở cuối bài viết này, Phép lạ Thánh thể qua trung gian Julia Kim tại Vatican 2010.

Kết luận

Trước những sự kiện lạ lùng thách thức khoa học như thế, một người có trí tuệ bình thường và lành mạnh không thể không đặt câu hỏi: Thông điệp của những hiện tượng này là gì?

Kinh Thánh đã trả lời:

Với con người, điều này là bất khả, nhưng với Chúa, mọi thứ đều có thể / With man this is impossible, but with God all things are possible” (Matthew 19:26).

Các bậc thánh và những nhà thông thái cũng đã trả lời:

Đấng Cứu Thế có thể làm được mọi sự. Cha không biết Ngài là Đấng Toàn Năng hay sao?” (Therese Neumann).

Phúc cho ai có Chúa ở trong lòng / Heureux celui qui porte en soi un Dieu” (Louis Pasteur)

Thiên Chúa cam đoan với mọi tín đồ Cơ đốc giáo về tính xác thực lịch sử của cuộc đời và sự đóng đinh thập giá của Jesus như được ghi lại trong Tân Ước…” (Paramahansa Yogananda)

Chủ nghĩa duy vật là sai lầm / Materialism is false” (Kurt Gödel)

 

 

PVHg, 03/08/2016

Tài liệu tham khảo:

1/ “Tự truyện của một Yogi”, Paramahansa Yogananda, NXB Lao Đông và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2014

2/ “Bà Therese Neumann, nhà thần bí và được in năm dấu thánh”, trang mạng Dân Chúa USA

(1) http://danchuausa.net/luu/ba-therese-neumann-nha-than-bi-va-duoc-in-nam-dau-thanh/

(2) http://danchuausa.net/luu/ba-therese-neumann-nha-than-bi-va-duoc-in-nam-dau-thanh-2/

(3) http://danchuausa.net/luu/ba-therese-neumann-nha-than-bi-va-duoc-in-nam-dau-thanh-3/

(4) http://danchuausa.net/luu/ba-therese-neumann-nha-than-bi-va-duoc-in-nam-dau-thanh-4/

23 thoughts on “Super-Natural Phenomena / Hiện tượng Siêu Tự nhiên [2]

  1. Cảm ơn chú Hưng đã dày công nghiên cứu những hiện tượng siêu tự nhiên, đặc biệt là về những phép lạ của Chúa để giúp cho mọi người hiểu thêm về Đạo. Tôi nghĩ đây là một phép lạ tâm linh do Chúa làm, thông qua vị Thánh Therese Neumann .
    Trước những hiện tượng này khoa học không sao giải thích nổi, liệu đọc xong những bài viết này có ai còn nghĩ rằng đó chỉ là hiện tượng mê tín dị đoan nữa không? Tự mỗi người cảm nhận, suy nghĩ và phán quyết. Mong chú Hưng sẽ đưa thêm nhiều bằng chứng khác thêm nữa để chứng minh cho mọi người thấy có Chúa ở trên đời! Cầu chúc chú có thêm sức khỏe để cống hiến cho đời nhiều công trình nghiên cứu khoa học tâm linh ấn tượng hơn nữa!

    Thích

    • Một khi bạn đã tin Chúa có thật, đời có Đạo thì những phép mầu nhiệm gần như luôn giải thích được. Tin được như vậy rồi tại sao chúng ta không “tầm sư học Đạo” ? như Tôn Ngộ Không vậy. Bản thân Tây Du Ký là những câu chuyện tu Đạo của nhiều (người), bao gồm những nhân vật chính, và Tôn Ngộ Không là một ví dụ điển hình.

      Nếu bạn để ý những băn khoăn trăn trở thôi thúc Ngộ Không đi tầm sư học Đạo không khác gì so với đức Phật thủa ban đầu. Học xong được Đạo, sẽ có những phép lạ (thần thông) siêu xuất (mà đại diện bởi 72 phép thần thông). So với những phép thần thông đó thì những điều người thường chúng ta được biết qua các bằng chứng thực tế vẫn chưa đáng kể gì.

      Liệu rằng khi tu Đạo lên một tầm nhất định sẽ có những năng lực tuyệt vời được triển hiện? Liệu bạn có ý niệm muốn đi theo con đường đó? Nhiều người biết là có Đạo nhưng cái tâm còn vướng bận mà vẫn lừng khừng chưa tới duyên để tu.

      Càng tu lên cao càng sáng tỏ!

      Thích

  2. Bạn Nguyen Tri Phuong thân mến
    Bạn có biết rằng có một phép lạ vô cùng lớn lao, dữ dội, kinh khủng nhất , hơn tất cả các phép lạ khác mà Kinh Thánh nói đến suốt từ Sáng Thế Ký đến Khải Huyền là gì không? Phép lạ này còn vĩ đại hơn cả Đức Tin nữa. Đó là : Tình yêu Thương.
    Kinh Thánh chép:

    So now faith, hope, and love abide, these three; but the greatest of these is love (1 Corinthians 13)
    Bây giờ còn lại ba điều nầy: đức tin, hy vọng, và tình yêu; nhưng điều cao trọng hơn cả trong ba điều đó là tình yêu thương.

    Mục Sư Billy Graham trong toàn cuộc đời chưa từng thực hiện môt phép lạ nào nhưng đã đem đến sự thay đổi cuộc đời cho hàng triệu người trên khắp thế giới khi đem đức tin về Chúa Jesus đến cho họ, tình yêu thương đã làm điều đó.
    Mẹ Teressa trong suốt cuộc đời mình cũng chưa thực hiện một dấu kỳ, phép lạ nào nhưng đã dấn thân chia sẻ đau khổ, đem sự an ủi cho biết bao nhiêu người đã bị xã hội bỏ đi. Tất cả điều đó đều là nhờ vào tình yêu thương- Phép lạ lớn lao vĩ đại nhất mà Chúa đã ban cho bà.
    Chúng ta không cần có siêu năng lực nhưng chúng ta vẫn sống được, nhưng nếu không có tình yêu thương thì sự sống không thể tồn tại được.
    Mẹ bạn, người đã phải tét da tét thịt chịu đau đớn để sanh ra bạn rồi hạnh phúc khi thấy bạn chào đời, người đã chịu lao khổ, sẵn sàng hy sinh cả thể xác lẫn tinh thần lẫn mình trọn cuộc đời để nuôi nấng dạy dỗ bạn- Điều gì đã thúc ép bà phải làm điều đó? Chỉ là tình yêu thương.
    Nếu không có tình yêu thương, bạn không tồn tại, tôi không tồn tại và trên hết, nếu không có tình yêu thương của Chúa đang bảo tồn thì không một sự sống nào có thể tồn tại.
    Nếu chỉ chăm chăm chạy theo dấu kỳ, phép lạ, siêu năng lực thì con người rất dễ bị phỉnh gạt. Con đường theo Chúa không đơn giản là nỗ lực tự khám phá bản thân đâu, mà đó là con đường dấn thân, con đường hy sinh, con đường chịu chung đau khổ với người khác, đóng đinh cái tôi của mình.
    Chúa Jesus nói rằng “ Trông quả thì biết cây” ((Mt 7,20) khi Chúa dạy về việc phân biệt thật giả trong một thế giới đầy dẫy sự giả tạo, Ngài không dạy lên núi lập một cái am rồi rồi luyện pháp môn để có siêu năng lực tự cứu mình, cái gì cũng vì mình, vì mình, nó chẳng thể hiện tình yêu thương, chẳng có chia sẻ đau khổ với ai ngoài việc cố gắng tự khẳng định mình, đó là điều là vô ích.

    Chỉ có duy nhất – Tình yêu thương, là phép lạ lớn lao nhất và xứng đáng nhất mà Chúa muốn chúng ta phải ao ước theo đuổi và thực hành, đó là sống vì người khác, và đó mới là ý nghĩa của cuộc sống.

    Thích

  3. Thân gửi Lamhoangau,

    Rất cám ơn bài viết tâm huyết của bạn, bạn chắc hẳn phải là người có hiểu biết sâu sắc về Thiên chúa giáo. Không biết bạn có cùng ý kiến với mình không, nhưng Thiên chúa giáo trước kia, cũng là một phần của Đạo, được sáng lập từ một vị thần giáng thế, và giác ngộ ở cõi người, là Chúa Giesu. Ông dẫn các con chiên đi theo con đường mình biết để tiến lên tới Đạo, và người ta gọi đó là Thiên chúa giáo. Điều này cũng giống như Đức Phật với Phật giáo của ông. Một cách tóm tắt Phật giáo hay Thiên chúa giáo đều là những con đường để cứu nhân độ thế đưa người ta lên gần với đại Đạo. Ở Thiên chua giáo, như bạn nói tập trung vào lòng thương, sự bao dung; trong khi Phật giáo là thiện tâm và sự từ bi.

    Ở trên mình có nhắc đến các khả năng siêu xuất, vì theo chủ đề ban đầu của chú Hưng và cũng để đáp lại comment của bạn Hữu Ái. Còn bất cứ ai tu Đạo chân chính cũng không bao giờ trông vào các khả năng đó để hướng tới cả, vì như thế chính loại một loại chấp trước cần gạt bỏ.

    Còn lại có những điều về tư tưởng và tầng thứ giác ngộ của từng tôn giáo thì mình không bàn, nếu có cơ duyên thì chúng ta sẽ tiếp cận được với tầng thứ rất cao của Đạo, mà ở đó tư tưởng của các tôn giáo cũng chưa giải thích hết hay đề cập tới được.

    Thích

  4. Bạn Nguyễn Tri Phương thân mến.

    Rất vui khi được bạn hồi âm và rất mừng và hạnh phúc khi được nói về Chúa Jesus cho bạn.
    Nếu bạn là một người khao khát và mong muốn tìm hiểu, Đạo-Chân lý thì tôi tin rằng chắc chắn bạn sẽ tìm hiểu được. “Hãy õ Cửa sẽ mở, hãy tìm thì sẽ gặp”- Kinh Thánh viết như vậy.
    Một điều quan trọng tôi muốn ngói ngay đó là Chúa Jesus không “chỉ là” một người thầy dạy đạo đức, “không phải” là một người giác ngộ. Tôi dùng từ “Không” để nói về việc phủ định điều này. Kinh Thánh viết rất rõ lời Chúa Jesus nói, không mập mờ mơ hồ về điều này. Ngài không nói Ngài sẻ chỉ cho bạn con đường đi, Chúa cũng không nói ngài chỉ cho bạn chân lý, Chúa cũng không nói Ngài có chân lý hay nắm giữ chân lý, nhưng Chúa khẳng định, Ngài “Là” đường đi, “Là” chân lý. Chúa cũng không nói Ngài sẽ chỉ cho bạn con đường để có sự sống , mà Chúa khẳng định Ngài “Là sự sống”.

    “I am the way, and the truth, and the life” (John 14:6)

    “Ta là đường đi, ta là chân lý, và là sự sống”

    Bạn khoan hãy đọc tiếp, tôi muốn bạn dừng lại, nhắm mắt lại và suy nghĩ một chút chỉ về một câu Kinh Thánh bên trên thôi.- Bạn hãy chiêm nghiệm thật kỹ về hai chữ “ Ta Là”

    Trong cổ ngữ Do Thái, danh xưng về Thượng Đế là cái mà mọi người không thể đạt được. bao gồm các phụ âmYHVH , muốn nói được thành tiếng thì phải có nguyên âm, nếu chỉ toàn phụ âm thì không thể phát âm được. Tạm huyển ngữ sáng Tiếng Anh là Jehova, gọi là “ I am Who I am”- Dịch làm sao đây? dịch là “ Ta là đấng ta là”- bạn hãy để ý tất cả những chữ “ ta là” mà Chúa khẳng định..

    Theo quan điểm thông thường và phổ biến của nhiều người thì có có nhiều con đường, nhiều cách . Nhưng Chúa Jesus tiếp tục khẳng đinh:

    No one comes to the Father except through me” (John 14:6)-
    “ Không bởi ta thì chẳng ai đến được cùng Thượng Đế”.

    Có điều gì khó hiểu hay mập mờ gì trong câu nói này của Chúa không? Không, sự khẳng định này của Chúa là Ngài phủ định tất cả con đường khác.

    Phúc Âm John đoạn 10 viết:

    7 So Jesus again said to them, “Truly, truly, I say to you, I am the door of the sheep. 8 All who came before me are thieves and robbers, but the sheep did not listen to them. 9 I am the door. If anyone enters by me, he will be saved and will go in and out and find pasture. 10 The thief comes only to steal and kill and destroy. I came that they may have life and have it abundantly. 11 I am the good shepherd. The good shepherd lays down his life for the sheep. (Jhon 10:7-11)

    7 Đức Chúa Jêsus lại phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta là cửa của chiên.
    8 Hết thảy những kẻ đã đến trước ta đều là quân trộm cướp; nhưng chiên không nghe chúng nó.
    9 Ta là cái cửa: nếu ai bởi ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi; họ sẽ vào ra và gặp đồng cỏ.
    10 Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật.
    11 Ta là người chăn hiền lành; người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình.

    Thượng Đế trong Cựu ước và Tân ước là hoàn toàn giống nhau, ngài luôn là một đấng khẳng định không bao giờ thay đổi.

    Nấc thang lên Thiên Đường , trong Cựu Ước và Tân Ước viết như sau. Trong Cựu ước là giấc mơ của Jacob được viết trong sách Sáng Thế chương 28.

    2 And he dreamed, and behold, there was a ladder[b] set up on the earth, and the top of it reached to heaven. And behold, the angels of God were ascending and descending on it! (Genesis 28:12)

    “Chàng thấy chiêm bao, và nầy, một chiếc thang bắc từ mặt đất mà đầu thang lên đến tận trời, các thiên sứ của Ðức Chúa Trời đi lên và đi xuống trên thang ấy.”

    Trong Tân Ước, Chúa Jesus đã phán với Nathanael – là một trong những người môn đồ đầu tiên ,khi Chúa thấy ông ngồi dưới gốc cây vả và đang đọc Cựu ước về giấc mơ của Jacob, Chúa Jesus phán như sau:

    “Truly, truly, I say to you,[k] you will see heaven opened, and the angels of God ascending and descending on the Son of Man. ( John 1:49)
    “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên sứ của Ðức Chúa Trời cất lên và ngự xuống trên Con Người.”

    Danh xưng Con Người là danh xưng Chúa Jesus dùng để nói về mình trong suốt Kinh Thánh.

    Chữ “Đạo”, tiếng Hán Việt có nghĩa là Đường Đi ( Độc đạo, địa đạo…), – Và Chúa Jesus “ Là” Đạo, “là” Đường Đi duy nhất để lên Thiên Đường.

    Thích

    • Chúa Jesus không phải là con người bình thường sau đó giác ngộ rồi trở nên giáo chủ, mà Chúa Jesus là Thượng Đế là Đấng Sống.
      Chúa Jesus phán trong Phúc âm Mathew:

      “You are wrong, because you know neither the Scriptures nor the power of God…. He is not God of the dead, but of the living.”( Mathew 22:29-32)

      Các ngươi sai lầm vì không hiểu Kinh Thánh và quyền năng của Thượng Đế….Thượng Đế không phải của kẻ chết, mà là Thượng Đế của kẻ sống.

      Chúa Jesus là Đấng Sống, sau khi lên trời, Ngài để lại duy nhất một nắm mộ trống không, trong đó không có bất kỳ một nắm xương khô,một bộ da khô hay một xác ướp nào cả để người ta tôn thờ nhơ như là một vị giáo chủ sáng lập tôn giáo, vì Ngài là Đấng Sống, đang sống và Sống đến đời đời.- Đây là điểm khác biệt hoàn toàn với tất cả các tôn giáo khác. Các giáo chủ thân xác đều trở về cát bụi nhưng chỉ duy nhất Chúa Jesus để lại một nấm mộ trống lốc.

      Thích

  5. Chào anh Lâm,

    Thực lòng mà nói, em rất ấn tượng bởi các comment của anh ở trang của Bác Hưng. Chúng hiển hiện một tình yêu và đức tin với Đức Chúa rất mạnh mẽ, tha thiết và hân hoan ẩn chứa trong anh..

    Vì là một người Công Giáo, nên em có thể hiểu và cảm nhận được những điều anh tâm niệm và muốn chia sẻ…

    Nhưng cho phép em được chia sẻ ý riêng của mình một chút.

    1.
    Các ý niệm của anh Lâm chia sẻ mang một xác tín rất mạnh mẽ. Và cho phép em được gọi là “mang tính chuyên môn” nhiều. Do vậy, nếu các bạn, đang follow một tôn giáo/một vị chủ chăn nào đó, có thể bị “khớp” và có thể khó lĩnh hội được hết các ý niệm mà anh rất nhiệt thành chia sẻ..(maybe, cũng có thể phát sinh một số tác dụng phụ nào đó trong nhận thức của họ…).

    2.
    Em có một người chị rất thân, gọi là tri kỹ. Chị có học vị (xem như thế) cao, và hiểu biết. Tuy nhiên, chị ấy rất tin vào khoa học và các chuyên gia. Chị không theo một tôn giáo hay tìm hiểu về bất cứ một tôn giáo nào. Nhưng chị ấy có một tâm hồn khá đẹp (theo em). Chị ấy đang là giảng viên của một trường đại học và chưa có chồng.

    Trong khoảng 03 năm trở lại đây, chị ấy luôn trong trạng thái bất an dữ dội, gần như bị trầm cảm và có đi trò chuyện cùng bác sĩ tâm lý về vấn đề của mình. Chị ấy thú nhận với em về việc có phát sinh ý định tự tử, về cảm nghĩ vô nghĩa của cuộc đời và về sự bất mãn khi đối diện với những điều bất như ý xảy đến với mình…

    Với sự bình an và hân hoan mà em đang có trong tâm hồn mình, làm cho em luôn khắc khoải về việc mang Chúa đến cho chị ấy. Nhưng anh biết không, mặc dù trước đó hai chị em là tri kỹ, tuy nhiên, em đang cảm thấy vô cùng khó khăn khi có ý định để chị tiếp cận với tâm linh và tôn giáo. Em đã khởi đầu bằng những giá trị chân thiện mỹ căn bản nhất, cho tới sự tiếp cận của Phật giáo, chứ chưa nói đến là Đấng Christ nữa… Nhưng mỗi lần em cố gằng trò chuyện với chị ấy, đều có cảm giác một bức tường to lớn khó mà bước qua, khó mà phá vỡ cho được…

    Vì em biết rằng, con người khó đạt tới sự trọn vẹn (về tình yêu, về sức mạnh, bình an…) nếu tách những giá trị ấy ra khỏi Thiên Chúa…

    Chị ấy là người có học thức, đã gắng đi tìm câu trả lời cho mình bằng những suy luận lý trí. Nhưng đã thất bại và vẫn chưa tìm ra lối thoát. Em hiện tại bây giờ, đang rất trăn trở và khắc khoải về chị ấy.

    Và cũng vì vậy, em đang suy nghĩ về việc truyền đạo của các Cha và Sour rất nhiều…

    Thật khó khăn biết bao..

    3.
    Em vẫn nghĩ, chúng ta phải tạ ơn Chúa vì ngay từ lúc sinh ra, đã được là con Chúa hẳn hòi. Đó là một đặc ân vô cùng to lớn. Tuy nhiên, những người chưa theo Chúa Jesus, bản thân họ đã là một bất hạnh, vì họ bị thách thức nhiều hơn…

    Em xin xác tín lại, Ý niệm mà anh Lâm luôn xác tín Chúa Jessus LÀ Đường, LÀ Sự Thật và LÀ Sự Sống, cũng chính là ý niệm xác tín của riêng em.

    Nhưng em vẫn luôn nghĩ rằng, một người follow con đường (thiện lành) khác, em vẫn cho rằng đó là bước đầu để Chúa dẫn dắt họ đến với Ngài. Ta không nên quá gay gắt về sự khác biệt (nếu có) trong những vấn đề không trọng yếu của Đạo. Theo em, các con đường khác đó, mặc dù không phải là con đường chính yếu của Đức Jesus, nhưng nó chính là những “đường tiệm cận”.

    Em vẫn luôn tâm niệm ý này theo lời của Chúa Jesus đã phán “Quả thật, ai không chống lại chúng ta, tức là ủng hộ chúng ta” (Mark 9:40). “Vì chẳng ai lấy danh Thầy mà trừ quỷ, sau đó lại có thể nói xấu về Thầy được” (Mark 9:39).

    Và như Chúa Jesus đã phán, Ngài sẽ đi tìm những con chiên khác, cũng không ở trong đàn này, và dẫn chúng về nữa..

    Hay như dụ ngôn về bữa tiệc của Thiên Chúa. Nếu chúng ta là những vị khách mời Ngài mà xem thường bữa tiệc này, thì quả thật, bữa tiệc được mở ra cho tất cả mọi người – những ai đương khao khát sẽ đều được dự phần…

    4.
    Có một comment nào đó (cũng ở trang của Bác Hưng), dẫn link về việc một Tu sĩ bên Phật Giáo bị thiêu đốt trong lửa hỏa ngục. Em vẫn không cảm được điều này.

    Em vẫn nghĩ, nếu một người tu bên Phật (thực sự theo con đường thiện lành) thì Chúa có bỏ họ không?

    Để kết, em nhớ lại một đoạn Kinh Thánh cựu ước em lưu tâm. Ông Abraham đã chất vấn Thiên Chúa, Chẳng lẽ Đấng xét xử Công Minh Nhất lại xét xử như thế sao? Lại xét xử người lành với kẻ dữ chung một trật sao?

    –> Chúng ta đã nhớ đến Chúa là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Nhớ đến Ngài là Đấng giàu lòng thương xót. Nhưng cũng xin nhớ đến Ngài là Đấng Thánh Khiết, và xét xử Công Minh nhất.

    Regards,

    Thích

    • Sau đây là ý kiến của bạn Hoàng Lâm trả lời bạn Anna Đỗ,
      Chào bạn Anna.
      Có một trường hợp giống với chị của bạn đó là Michael Phelps.
      Trong kỳ thế vận hội này, kình ngư Michael Phelps là cái tên được cả thế giới nhắc đến nhiều nhất, là vận động viên bơi lội suất sắc nhất, đi vào lịch sử Olympic, trước đó anh đã ở trên đỉnh cao vinh quang trong một thời gian dài, nhưng đâu ai biết rằng quá khứ anh cũng đã từng có khoảng thời gian vô cùng đen tối, anh đã từng gặp khủng hoảng , anh đã từng rơi vào trạng thái trầm cảm, nghiện ngập, cảm thấy cuộc sống vô nghĩa, gãy đổ các mối quan hệ và anh cũng đã từng có ý định tự sát. Nhưng Chúa đã cứu sống anh khi Phelps đượcđọc quyển sách “ Sống Theo đúng mục đích” của Mục sư Rick Warren- Quyển sách này , là một là một trong những cuốn sách được dịch ra nhiều ngôn ngữ nhất sau Kinh Thánh. Bạn hãy nói về trường hợp của Phelps cho chị ấy và giới thiệu với chị của bạn quyển này, Chúng ta hãy cầu nguyện cho chị , hãy đến hến lòng dùng tình yêu thương của Chúa mà giúp đỡ cho chị ấy.
      http://news.zing.vn/michael-phelps-suyt-tu-tu-vi-tram-cam-post673293.html
      http://daminhvn.net/tan-man-giai-tri/tat-ca-cac-tam-huy-chuong-vang-doi-voi-michael-phelps-la-vo-nghia-cho-den-khi-anh-tim-gap-duoc-chua-12318.html
      Địa chỉ quyển sách ở đây.

      Click to access songtheoduchmucdichbyrickwarren.pdf

      Về những ý sau của bạn.
      1.
      Chúng ta đang sống ở thời kỳ ân điển, Kinh Thánh cho chúng ta biết những người được chọn thì Chúa đã chọn họ trước buổi sáng thế rồi, đó là ân điển của Chúa, chúng ta chỉ biết tạ ơn Ngài thôi, vấn đề là chúng ta không biết ai được chọn nên Chúng ta chỉ có thể nói về Chúa cho họ thôi, nếu họ là chiên của Chúa thì họ sẽ nghe được tiếng Chúa mà quay trở về, còn không thì cũng vô phương thôi cho dù chúng ta có cố gắng cỡ nào đi nữa vì “Chiên ta nghe tiếng ta”
      Đó là vấn đề thứ nhất
      Thứ hai, trong câu chuyện của Abraham mà bạn trích dẫn, thì lúc đó Abraham đã hiểu lầm về Chúa hay nói đúng hơn là ông đã hiểu sai về Chúa vì lúc đó Abraham vừa mới đi theo Chúa thôi, ông chưa có những hiểu biết sâu nhiệm và đúng đắn về Chúa, ông đã chất vấn Chúa, ông nói là Chúa không công bình giống như là ông giận Chúa vậy.
      Chúa đã không trảl ời Abraham mà Ngài đã hành động cho ông thấy, Chúa đã không giết bất cứ một người công bình nào cả, chỉ có mộ người công bình duy nhất là Lot và Chúa đã sai thiên sứ cứu ông ra. Đến nỗi thiên sứ đã nói rằng nếu ông không đi xa khỏi thành này thì lửa từ trời không thể nào đổ xuống đây được. Chúa đã đợi cho gia đình ông Lót đi thật xa rồi Ngài mới hủy diệt thành.Ngài đã không hủy diệt bất kỳ một người công bình nào cả, tất cả những người còn lại đều là người tội lỗi.
      2.
      Kinh Thánh cho biết, trong toàn bộ lịch sử từ Cựu Ước cho tới Tân Ước tất cả đều phải được cứu thông qua Chúa Jesus, không có con đường thứ hai.
      Ông Adam và bà Eva được cứu bởi một con chiên con đã chết, khoác làm áo che cho ông bà, đó là hình bóng của Chúa Jesus. Isac cũng đã được cứu bởi một con chiên con xuất hiện trong bụi gai làm sinh tế chết thế cho ông- đó là hình bóng của Chúa Jesus. Dân Do Thái đã được cứu bằng việc dâng các con sinh tế lên cho Đức Chúa Trời-Đó là hình bóng của Chúa Jesus.
      Kinh Thánh khẳng định rõ ràng:
      “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” Công vụ 4:12.
      3.
      Bất kỳ ai mà bạn cho rằng họ là tốt, họ là thiện lành, hay con đường thiện lành nào khác- Khi nói như vậy có nghĩa là nói về cái TÔI của mình, lấy TÔI làm tiêu chuẩn để đánh giá thiện lành, đạo đức. TÔI tốt, Người đó tốt, người kia tốt,… tức là tốt theo cái TÔI của tôi nhìn thấy,…tôi tốt như vậy tại sao tôi phải khổ, tôi tốt như vậy tại sao tôi lại gặp bât hanh…Nhưng con người đâu phải là Thượng Đế, TÔI đâu phải là trung tâm của vũ trụ, Tôi đâu tạo ra được vũ trụ này mà tôi đánh giá là tôi rất tốt, hay người khác rất tốt- hay phán xét sự này là công bình, sự kia là không công bình.
      Sự công bình, tốt lành phải được đặt trên hệ quy chiếu của một đấng tuyệt đối vô hạn chứ không thể đặt trên hệ quy chiếu cái TÔI nhỏ xíu được.
      Con người muốn giải quyết vấn đề của con người phải cần đến một đấng bên ngoài con người ( Đinh lý bất toàn).
      Chúa Jesus đã minh họa việc này qua một ví dụ , nói về sự Tha thứ, về sự xưng công bình trong Kinh Thánh như sau:
      Mathew 18:24-34:
      “Vậy nên, nước thiên đàng giống như vua kia, muốn tính sổ với các đầy tớ mình. 24 Khi vua khởi soát sổ, thì có người đem nộp một tên kia mắc nợ vua một vạn ta-lâng.
      25 Bởi vì người chẳng có gì mà trả, thì chủ dạy bán người, vợ con và gia tài người, đặng trả nợ. 26 Kẻ đầy tớ nầy bèn sấp mình xuống nơi chân chủ mà xin rằng: Thưa chủ, xin giãn cho tôi, thì tôi sẽ trả hết! 27 Chủ bèn động lòng thương xót, thả người về, và tha nợ cho”
      Tội lỗi trong Kinh Thánh còn được ví như là khoản NỢ.
      Một vạn ta-lâng vàng, thời Tân Ước so với bây giờ là khoảng 2 Tỷ Đô la mỹ tức đương đương 160.000 năm làm công ( một trăm sáu mươi nghìn năm đi làm công).
      Thế mà người đầy tờ đã xin rằng ông sẽ trả hết nợ! Ông đã nói một điều mà chính ông ông hiểu, ông có đi làm hết đời hết kiếp, qua đến kiếp sau , kiếp nữa…. cũng không thể trả hết nợ.
      Đó là cách những người đi theo con đường công đức, để mong được vào Thiên Đàng bằng sức riêng của mình sẽ giống như ví dụ trên, có tu luyện hết đời hế kiếp cũng không thể nào dựa vào đó để nói rằng tôi đã đủ tốt lành để được hưởng Thiên Đàng.
      Điều đó xuất phát từ việc không ý thức Thượng Đế là Đấng vô hạn, vô Cực dẫn đến việc không ý thức được cái TÔI của con người là nhỏ bé vô cùng- nhưng giải quyết vấn đề lại đặt trên cơ bản cái tôi của mình, đó là một sai lầm.
      4.
      Con người phải chịu giải quyết theo cách của Chúa, tức là Chúa Jesus phải chịu chết để trả nợ cho con người- không còn có cách nào khác
      Câu Kinh Thánh trong Mark 9:40 mà bạn trích dẫn vẫn nói về một ý đó nhưng bạn Anna đã hiểu ngược. Câu này được ký thuật lại trong Luca 11: 23 và Mathew:12:22-30
      23 “Whoever is not with me is against me. And anyone who does not work with me is working against me.( Luke 11:23) -ESV
      23 Phàm ai không theo ta, thì nghịch cùng ta, ai không thâu hiệp với ta, thì tan lạc.
      Câu trong Mark là cùng một ý nhưng cách nói khác nhau.
      40 Whoever is not against us is with us” ( Mark9:40)
      40 Hễ ai không nghịch cùng ta là thuộc về ta.
      Tôi để hai câu này sát lại với nhau để bạn so sánh.
      “23.Phàm ai không theo ta, thì nghịch cùng ta…-40 Hễ ai không nghịch cùng ta là thuộc về ta.”
      Chúa Jesus khẳng định rằng chỉ có một một con đường duy nhất thông qua chúa Jesus, không có con đường trung dung, tiệm tiến, tiệm cận, thứ hai thứ ba…nào nữa cả.

      Thích

  6. Thân gửi bạn Lamhoangau và bạn Anna Đỗ,

    Rất cảm ơn 2 bạn vì đã chia sẻ đầy tâm huyết những kiến thức và đức tin ở Công Giáo, điều đã giúp mình và các bạn không theo Công giáo được sáng tỏ hơn rất nhiều.

    Như bạn Anna Đỗ có nói, với người ngoại đạo như mình thì không dễ dàng để tiếp nhận thông tin và lĩnh hội các hàm nghĩa chuyên sâu. Tuy nhiên mình có thể lờ mờ nhận thấy dù khác nhau về ngôn từ và cách diễn giải, Đạo Thiên chúa và Đạo Phật đi lên đến tận cùng sẽ gặp nhau ở đâu đó vì đây đều là những chính Đạo, cơ sở thiết yếu giúp con người “giác ngộ” “thăng hoa”, “hiểu được bản chất cuộc sống, sinh tồn” và bắt đầu bằng việc giúp chúng ta tốt hơn mỗi ngày.

    Cho nên có lẽ không cần bàn gì thêm về chủ đề này. Mình xin được chúc mừng những ai đã thấy được “con Đường”, thấy “Đạo”. Xin chúc chúng ta chuyên nhất đi theo con Đường đó không buông lơi, đồng thời giúp đỡ bất cứ ai hữu duyên.

    Trân trọng,

    PS: Mình chỉ tò mò muốn hỏi một chút trong Kinh Thánh hoặc trong bất cứ lời giảng nào của Chúa liệu có dự ngôn cho những biến động ghê gớm thời kỳ này? có dự ngôn cho một điều tuyệt vời mà đã/đang triển hiện nơi cõi người?

    Thích

  7. Chào chú Hưng và readers,
    Gửi anh Lâm,

    ** Con xin đánh chính tên con Đỗ Thị Diễm Kiều (Anna Đỗ). Nếu chú/readers có nhầm với ai đó 🙂

    ** Con xin được gửi bình luận này, cho hết ý của mình. Mong không phiền nhiều đến chú và độc giả.

    1. Về đoạn Kinh Thánh Tân Ước liên quan đến ông Abraham.

    ***/
    Anna có thể hiểu đoạn đó (như ý anh đã trình bày). NHƯNG, Ý Anna muốn hướng tới trong comment đầu tiên CHÍNH là ngờ vực về việc xét xử công minh của Thiên Chúa (trong cung cách rất kính sợ) của ông Abraham. Thể hiện qua đoạn lặp “Chắc không được đâu”.

    “Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu”

    Tiếp theo đó, là các câu hỏi và câu trả lời được lặp lại. Truyền tải rất cảm động sự kiên nhẫn và lòng thương xót một cách kiên định của Thiên Chúa.

    –> Anna nghĩ, khi Abraham hỏi như vậy, là dựa vào đâu? Dựa vào lương tâm trong chính con người ông. Thế nên ông đã mạo muội hỏi lại với ý niệm Chẳng lẽ Đấng xét xử trần gian lại không công minh và giàu tình thương hơn thế?

    NÊN Đức Chúa mà Anna nghĩ tới là Đấng giàu lòng thương xót và luận xét rất Công Minh.

    ***/
    Còn về người công bình (công chính) và kẻ tội lỗi, anh có thể đưa ra ranh giới để phân định không ? Vì Kinh Thánh chẳng đã nói, Chẳng có một người công bình nào cả, dẫu một cũng không. Vậy thì ai mới được cứu?

    Nhưng khi nói về sự cứu độ. Chúa Jesus có nói.
    “Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: “Thế thì ai có thể được cứu?” Ðức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Ðối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được”. (Mt)

    TÓM LẠI Ý NÀY,

    * Hoàn toàn đồng ý với anh Lâm, về việc con người chỉ được cứu thông qua Jesus. Nhưng thông qua là gì? Em nghĩ đến 02 điều: Tin nhận Chúa Jesus VÀ thi hành lời của Chúa. Điều này cũng chỉ thâu về 02 điều răn căn bản mà tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương con người.

    Xin chen ngang một trích dẫn:
    “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. 24″Vậy ai nghe những Lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. (Mt)

    –> Nhưng comment của anh (theo em hiểu), nhấn RẤT MẠNH ở ý niệm đầu, là tin nhận vào Chúa Jesus. Nhưng còn một vế nữa, là yêu thương mọi người. Vế này, xuất hiện trong hầu hết các tôn giáo, và các tôn giáo đều có những trọng tâm cơ bản về vế thứ 02 này.

    –> Vậy theo anh, thì ai sẽ được cứu? Điều kiện VÀ trong 02 ý (02 điều răn) em đề cập ở trên thì buộc phải xảy ra đồng thời cả hai mới được. Vậy (theo lý lẽ thông thường) phải đạt tỷ lệ bao nhiêu, thì được vào nước Chúa? (vì không một ai đạt full cả).

    Nên Anna mới bảo “con đường tiệm cận” là vì vậy.

    2.
    Còn về khái niệm thiện lành em đề cập là giữa con người và con người, chứ không phải sự yêu thương của Thiên Chúa với con người, hay sự Thánh Khiết, thiện lành của Chúa.

    Thì như vậy, hầu hết các ý niệm về yêu thương mà Kinh Thánh nói đến giữa con người với nhau (hay có thể tìm ở các tôn giáo khác), thì có một điều làm căn cứ cho nó rồi ĐÓ LÀ LƯƠNG TÂM. Nó sẵn có rồi.

    Tạm Kết,

    — Rất vui vì Lời Chúa được chúng ta say mê tìm hiểu.. Trước khi comment, Anna đều cầu nguyện, Lạy Chúa, xin cho con hiểu ý Ngài trong con, và Lạy Chúa, nếu con hiểu sai, hãy nói với con qua mọi người..

    — Áp dụng cách nói của Abraham với Thiên Chúa. Anna hay cầu nguyện rằng, Lạy Chúa, xin đừng hủy diệt con, vì chẳng lẽ trong con còn một chút “lương tâm” (không dùng từ thiện lành nữa” thì xin hãy vì điểm đó mà cứu con.

    Chúc chú Hưng và readers nhiều niềm vui và bình an.

    Thích

    • Dear ANNA ĐỖ,
      Xin lối cháu vì chuyện nhầm lẫn tên. Sự nhầm lần này là do chú Hưng.
      Ý kiến của cháu, của anh Lâm, anh Tri Phương,… đều rất hay. Các ý kiến bố sung cho nhau, làm cho tư duy phong phú thêm, chân lý được sáng tỏ hơn.
      Chú cũng rất vui vì lời Chúa được say mê tìm hiểu,
      Chú cũng rất vui vì độc giả của trang PVHg’s Home có nhiều người giỏi quá!

      PVHg

      Thích

    • iviệt thiết nghỉ, bạn có lối viết văn rất hay, chữ việt còn rất thông thạo nữa, và âm hiểu nhiều về kinh thánh. Bạn là một tín đồ trung tín với Đấng Công Minh Chúa Trời hy vọng bạn sẻ tìm ra được chân lý, chiều sâu tâm thức cho niềm tin của bạn vững chắc bình an trên trần thế này trước mọi sự đổi thay tiến bộ về khoa học kỷ thuật, nền tảng đạo lý văn hóa, và những loại ngôn ngữ huyền bí bất tận. Thân ái. !

      Thích

    • Ý kiến của Hoàng Lâm gửi Anna Đỗ, nhờ chú Hưng chuyển giúp:
      Chào bạn Anna
      Rất vui vì chúng ta cùng được học lời Chúa, Kinh Thánh nói rằng nếu chúng ta cầu nguyện và lấy hết tấm lòng đơn sơ cua mình đến với Chúa, mời Ngài ngự vào lòng, xin Chúa Thánh Linh dạy dỗ thì Ngài sẽ bày tỏ cho chũng ta những lẽ thật.
      Xin được chia sẻ với bạn về những điểm bạn hỏi.
      Trích dẫn của bạn Anna
      “TÓM LẠI Ý NÀY,
      Hoàn toàn đồng ý với anh Lâm, về việc con người chỉ được cứu thông qua Jesus. Nhưng thông qua là gì? Em nghĩ đến 02 điều: Tin nhận Chúa Jesus VÀ thi hành lời của Chúa. Điều này cũng chỉ thâu về 02 điều răn căn bản mà tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương con người.”
      Kinh Thánh chép :
      8 For by grace you have been savedthrough faith. And this is not your own doing; it is the gift of God, 9 not a result of works, so that no one may boast.
      “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình “( Êph 2:8-9).
      “Ân điển” hay “ân sủng” “GRACE” là một từ lớn lao nhất trong Đạo của Chúa.
      Ẩn Điển- Là cái cúng ta không đáng nhận nhưng chúng ta lại được cho không.
      Thương Xót- Là cái đáng ra chúng ta phải bị nhưng chúng ta không bị.
      Hai điều đó đều đến từ Thiên Chúa ban cho, không đến từ con người. Để không ai có thể loại bỏ Chúa ra rồi cố gắng làm công đức thật nhiều rồi đứng trước mặt chúa khoe khoang kiêu hãnh, như trong ví dụ về người làm công nợ một vạn ta-lâng bên trên.
      Bởi Đức Tin vào việc nhìn nhận mình là người có tội, tin nhận Chúa Jesus đã chịu đóng đinh chết thế cho bạn, ăn năn tội, mời Ngài vào lòng , và bây giờ bạn được Đức Chúa Trời xưng là công bình, trước mặt Chúa bây giờ bạn không còn là người có tội nữa, bạn là một người mới, mọi sự được dựng nên mới, bây giờ bạn sống theo những giá trị mới của Chúa Jesus đã dạy, Chúa Jesus là đấng sống và Ngài sẽ sống trong bạn và Ngài sẽ hành động qua bạn. Kinh Thánh gọi đây là sự TÁI SANH. Không tái sanh thì không thể vào nước Thiên Đàng.
      3 Jesus answered him, “Truly, truly, I say to you, unless one is born again[b] he cannot see the kingdom of God.” (John 3:3-5)
      3 Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời
      Khi TÁI SANH chúng ta mới biết sự sống thật sự là gì, nhiều người Họ chỉ hiện hữu chứ không sống, sống và hiện hữu là hai điều khác nhau. hay nói cách khác họ đã chết rồi và chỉ đợi đến lúc chôn mà thôi. Chỉ khi Chúa Jesus sống trong chúng ta, chúng ta mới có sự sống thật, và khi ta nhắm mắt chỉ là sự chuyển tiếp sang một sự sống đời đời phứơc hạnh viên mãn hơn. Tức là khi tái sanh thì Thiên Đàng đã ở ngay trong lòng bạn rồi, bạn sẽ được nếm trải ngay sự sống thật sự là gì.
      Tóm lại ý này :
      Con người được Chúa cứu để rồi đi làm việc lành chứ không phải cố gắng làm thật nhiều việc lành để được Chúa cứu.
      2/
      Lương Tâm.
      Trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói rằng con người sẽ nhờ lương tâm mà được cứu nhưng Kinh Thánh nói ngược lại, lương tâm sẽ chống lại họ vào ngày cuối cùng khi đứng trước tòa án của Chúa để trả lời.
      Kinh Thánh chép:
      God’s Judgment and the Law
      12 For all who have sinned without the law will also perish without the law, and all who have sinned under the law will be judged by the law.13 For it is not the hearers of the law who are righteous before God, but the doers of the law who will be justified. 14 For when Gentiles, who do not have the law, by nature do what the law requires, they are a law to themselves, even though they do not have the law. 15 They show that the work of the law is written on their hearts, while their conscience also bears witness, and their conflicting thoughts accuse or even excuse them 16 on that day when, according to my gospel, God judges the secrets of men by Christ Jesus. (Romans 2:12-15)
      12 Phàm những kẻ không luật pháp mà phạm tội, cũng sẽ không luật pháp mà hư mất; còn những kẻ có luật pháp mà phạm tội, thì sẽ bị luật pháp đoán xét;
      13 Vì chẳng phải kẻ nghe đọc luật pháp là người công bình trước mặt Đức Chúa Trời, bèn là kẻ làm theo luật pháp được xưng công bình vậy.
      14 Vả, dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm những việc luật pháp dạy biểu, thì những người ấy dầu không có luật pháp, cũng tự nên luật pháp cho mình.
      15 Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình.
      16 Ấy là điều sẽ hiện ra trong ngày Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà xét đoán những việc kín nhiệm của loài người, y theo Phúc Âm .
      Đoạn Kinh Thánh này nói về người ngoại, là những người không tin Chúa Jesus.
      Lương Tâm- là luật pháp của Chúa được viết trong lòng mỗi người sẽ đoán xét họ vào ngày cuối cùng, lúc đó không ai có thể biện hộ được với Chúa là con không biết nên con không có tôi, khi họ làm bất kỳ việc gì thì chính ho là người đầu tiên biết rồi.
      Lương tâm đã lên án và đoán xét trước rồi. Cho nên câu trả lời “ Con không biết nên con không có tội” là câu trả lời vô lý trước mặt Chúa.
      Thật sự tôi rất vui vì được học Kinh Thánh với bạn, Sở dỹ tôi nói RẤT MẠNH bởi vì tôi muốn nhấn mạnh vào khía cạnh trọng yếu của Đạo Chúa- Đây là hố sâu vô cực không thể lấp đầy của đạo Chúa với Tất cả các tôn giáo khác. Con người Phải chấp nhận Phương cách của Chúa chứ không thể tu thân tích đức, làm lành lánh dữ nhưng loại chúa Jesus ra để được vào Thiên Đàng theo phương cách của con người được.

      Thích

      • Anna gửi anh Lâm,

        Anna không dấu được những lời của Chúa vang lên trong mình, nên mặc dầu nhiều do dự, Anna muốn gửi đến anh đôi điều, sau mấy hôm vừa qua.

        Đây được xem là bài “phản biện” của Anna về chính comment của mình về 02 ĐIỀU RĂN đã dẫn ở trên.

        1. ĐIỀU TRƯỚC NHẤT

        Ý trên, Anna có dùng từ “VÀ”. Đó kỳ thực là một điều sai hết sức căn bản. Kinh Thánh Cựu Ước cho đến Tân Ước đã luôn dẫn dụ về việc điều trọng yếu nhất là phải tôn thờ Thiên Chúa và kính mến Ngài bằng tất cả và trên tất cả mọi sự.

        Còn nhớ ở Cựu Ước:
        Khi ông Abraham vâng theo Thiên Chúa mà dâng đứa con trai duy nhất của mình làm lễ tế thì đã rõ. Sự tôn thờ và niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, không cho phép chúng ta luận bàn về những chuẩn mực đạo đức qua những triết lý thông thường.

        Jessus cũng đã xác tín lại trong lời giải thích của Ngài trong Tân Ước:
        Thưa thầy, trong luật pháp, điều răn nào là lớn hơn hết?
        Ðức Chúa Jessus đáp rằng: Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Ðức Chúa Trời ngươi. Ấy là điều răn thứ nhứt và lớn hơn hết.(Mt)

        -> Nên vậy, tất cả những điều răn còn lại đều phải đặt sau điều này. Tức là đặt mọi điều trong ý muốn và đức tin nơi Thiên Chúa.

        2. LUẬT YÊU THƯƠNG

        *** Sự kiện toàn hoàn hảo:

        Một điều thật xấu hổ ngay sau khi comment xong, thì Chúa dùng lời của Ngài mà tỏ cho Anna.
        Anna đã đặt luật yêu thương của Chúa ngang hàng với các tôn giáo khác. Nhưng không, Lời Chúa trong mấy ngày vừa qua, vang lên trong em.

        Từ núi Sinai, Mose đã tạc 10 điều răn được xem là những điều luật của Thiên Chúa muốn gửi đến dân Ngài. Nhưng tới Tân Ước, Chúa Jessus đã tỏ rõ ràng:
        “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.(Mt)

        Cũng từ đó, có thể thấy được sự kiện toàn luật yêu thương một cách hoàn hảo của Đấng Christ theo Phúc âm của Thánh Matthew. Xin được đọc lại một lần (ở cuối bài) để thấy được sự kiện toàn lề luật mà Jessus mang đến trong Tân Ước.
        Không thể đặt ngang hàng với bất kỳ một lối triết học hay tôn giáo nào khác được.

        *** Và tận cùng của yêu thương:

        Chúa Jessus tóm gọn lại một câu duy nhất “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG ANH EM” (Ga).

        Nếu ở Cựu Ước là yêu thương người khác như NHƯ CHÍNH BẢN THÂN MÌNH thì ở Tân Ước luật yêu thương đã buộc con người phải hướng tới cái chết của Jessus trên thập tự..

        ANNA SAI RỒI.

        Từ giờ, nếu có ai muốn Anna phải trả lời bất cứ điều gì liên quan đến điều này. Thì Anna sẽ trả lời rằng, tôi sẽ đón nhận tất các các tôn giáo/triết lý khác với một trái tim rộng mở, còn về phần quan điểm, xin cho tôi được giữ nguyên xác tín về Thiên Chúa của tôi.

        Cảm ơn anh Lâm và chú Hưng rất nhiều.

        ——
        Anna xin được đọc lại đoạn Kinh Thánh về việc kiện toàn lề luật của Jessus ở đây cùng mọi người.

        “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa.Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.
        Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.
        Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.
        Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỵ.
        Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi.
        Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.
        Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?
        Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện.”

        Thích

      • Bạn Lâm thân mến, sự hiểu biết về Kinh Thánh của bạn rất ưu việt và tôi hoàn toàn cảm nhận được sự chân thành của bạn qua việc chia sẻ sự thật của Chúa với bạn Anna. Cảm ơn bạn!

        Bạn Anna yêu quý, cám ơn đã chia sẻ trải nghiệm của bạn! Mình cũng từng tin như bạn nhưng đến khi nghiên cứu Kinh Thánh một cách thấu đáo thì mình mới nhận ra một chân lý là chỉ bằng cách đón nhận Chúa Jesus mà chúng ta mới
        được cứu rỗi. Sin is sin is sin. Tội lỗi là tội lỗi, nó không phân cấp bậc. Tất cả mọi người sinh ra trên thế gian đều mang tội ngoại trừ Chúa Jesus vì Ngài chính là Đức Chúa Trời.

        Abraham hỏi Chúa rằng nếu Ngài phá hủy thành Sodom thì liệu trong số đó có người công bình. Nhưng cuối cùng thì không ai công bình cả phải không nào? Chỉ có Lot và gia đình của anh được cứu không phải vì anh ta là người công bình mà chính là vì sự lựa chọn cứu rỗi của Chúa Trời.

        Câu cửa miệng của nhiều người “đạo khiến con người ta tốt hơn” đúng NHƯNG điều đó không thể xóa hết tội lỗi của chúng ta. Nếu chúng ta có thể làm đều tốt để chuộc tội ắt hẳn Chúa Jesus đã chịu chết một cách ủông phí (die in vain) đúng không?

        Trong Kinh Thánh cựu ước, dân Do Thái từng phải giết con vật vô tội để chuộc tội. Chính hình ảnh của Chúa Jesus là sự tế để chuộc lại tội lỗi của cả THẾ GIAN. Jesus is the Lamb of God.

        Vậy điều đó có nghĩa là người theo Công Giáo có tốt hơn những người ở tôn giáo khác không? KHÔNG. Chúng ta không tốt hơn một người làm điếm ( Mary Magdalene), một kẻ cắp ( kẻ cắp chịu hành hình chung với Jesus được Ngài xóa tội) hay một người thu thuế (Paul)… Chúng ta chỉ đơn giản là những người được chọn. Vì chúng ta tốt hơn kẻ khác? KHÔNG. Vì ĐỨC CHÚA TRỜI là Đấng Nhân Từ, tất cả là để tôn lên sự vinh hiển của Ngài và Ngài là tâm điểm của vũ trụ.

        Even every one that is called by my name: for I have created him for MY GLORY; I have formed him; yea, I have made him.
        Isaiah 43:7

        Tức là những kẻ xưng bằng tên ta, ta đã dựng nên họ vì VINH QUANG TA; ta đã tạo thành và đã làm nên họ.

        Tóm lại, công việc của chúng ta là gì? YÊU THƯƠNG TẤT CẢ không cần biết họ theo tôn giáo nào. Nhưng yêu thương trong lẽ thật và giúp họ hiểu được lẽ thật bởi chính chúng ta cũng là những kẻ Ngoại Đạo được chọn (gentile)
        Mình cũng là người narrow mind bạn à. Trái tim thì mở rộng nhưng trí óc thì không mở rộng cho các idea khác mâu thuẫn với Kinh Thánh. Eve đã từng mở rộng cho Satan dối gạt đấy.

        Mình xin cầu nguyện cho chị của bạn Anna tìm thấy con đường đến với Chúa nhé.

        Thích

  8. Bạn Anna Đỗ thân mến!
    Qua comment của bạn, tôi biết bạn đang trăn trở tìm cách giúp cho một người được bạn coi là tri kỷ. Đọc những tâm sự của bạn, tôi nghĩ chắc chắn chị ấy sẽ phải là người thiện lương, nhưng không biết chị ấy có nhiều cảm xúc tâm linh hay không. Tôi đã nghe các Sơ truyền giáo nói với tôi rằng người nào có nhiều cảm xúc tâm linh thì tiếp nhận Đức tin rất tốt, nếu không thì rất khó theo bất kỳ Đạo nào. Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm bản thân tôi, tôi mong chia sẻ với bạn một chút gì đó để bạn giúp cho chị ấy đến được với Đạo. Đó là quá khứ của tôi cách đây gần 20 năm khi tôi đang sống trong SG và gặp phải khó khăn, bất hạnh trong cuộc đời. Tương tự như chị ấy, lúc đó niềm tin của tôi vào cuộc sống bị tan vỡ, tôi đã có những ý định vô cùng tiêu cực, tôi nhìn cuộc sống bằng con mắt đen tối, cuộc sống quanh tôi lúc đó quá tồi tệ và vô nghĩa, khác hẳn với những giấc mơ tuổi trẻ, khác hẳn với những đạo lý trong chuyện cổ tích mà tôi thuộc lòng trong đó bao giờ người thiện lành cuối cùng cũng được hưởng phúc đức, kẻ xấu sẽ bị trừng phạt. Nhưng vì 2 đứa con của tôi khi ấy nhìn chúng quá ngây thơ, bé bỏng tôi đành phải cố gắng để mà sống vì con. Tuy nhiên tôi sống với trái tim tan nát, tôi cảm giác lúc đó tôi chỉ sống thể xác nhưng linh hồn thì đã chết rồi, tôi không biết làm cách nào để thoát ra khỏi bế tắc. Chắc lúc đó nhìn tôi rất thảm hại,…
    Nhưng rồi bất ngờ tôi gặp một bà lớn tuổi ở cùng chỗ làm việc, bà là người bên Đạo. Bà nhìn tôi thấy cảm thương lắm, nên khuyên tôi hãy đến cầu nguyện dưới chân Đức Mẹ trong sân Nhà Thờ ở Đường Tôn Thất Tùng trong SG. Tôi không theo Đạo nên tôi hỏi: “Cháu không theo Đạo liệu đến đó cầu nguyện Chúa có phù hộ cho cháu không?” Bà ấy trả lời: “Chúa và Đức Mẹ phù hộ cho tất cả mọi người, người bên lương còn được Chúa ban cho nhiều ơn hơn bên Đạo, có rất nhiều người bên lương họ cũng đến đó cầu xin đấy, cháu cứ vào đó cầu nguyện đi, miễn là phải thành tâm tin có Chúa nhé…”. Tôi rất phân vân, nhưng rất may là tôi luôn có linh cảm có thần thánh, có ma quỷ. Giống như bệnh nhân ai mách chữa thuốc gì cũng nghe, thế là tôi đến trước tượng Đức Mẹ ở chỗ bà ấy mách để cầu nguyện. Tôi cầu xin Chúa giúp tôi thoát khỏi tình trạng thê thảm hiện tại.
    Không lâu sau đó, mọi điều diễn ra như có phép lạ. Đúng là tôi được Chúa thương, Chúa đã giúp cho tôi không chỉ thoát khỏi bế tắc trong thời gian ấy, Chúa đã cứu vớt linh hồn tôi, Người đã ban cho tôi còn nhiều hơn những gì tôi mong ước. Bây giờ tôi được sống bình an trong vòng tay yêu thương của Chúa! Tôi đã lấy lại được niềm tin yêu, ý nghĩa trong cuộc đời, tôi biết cuộc đời này con người phải sống với nhau bằng tình yêu thương và rồi mọi thứ đều sẽ mất đi chỉ có tình yêu thương là có ý nghĩa nhất trong cuộc đời này, đúng như Chúa đã dạy. Tôi đã gặp được một người đạo đức giới thiệu tôi vào Đạo. Người ấy nâng đỡ tâm hồn tôi, hướng tâm tôi vào cuộc sống Chân Thiện Mỹ, truyền cho tôi một niềm tin rằng “có Chúa là có tất cả!” và “Điều này con người không làm được, nhưng với Chúa mọi việc đều có thể”,…
    Vì vậy nếu bạn gặp khó khăn khi nói chuyện về Đạo với chị bạn tri kỷ của bạn thì thì theo tôi bạn hãy khuyên chị ấy đến cầu nguyện dưới chân Chúa và Đức Mẹ giống như tôi. Tôi nghĩ là Chúa sẽ có cách chỉ dẫn cho chị ấy nên đi theo con đường nào là đúng nhất đối với chị ấy hiện nay…Chúc bạn thành công trên con đường làm Tông đồ của Chúa!
    H.A.

    Thích

  9. Trong kinh thánh sáng thế kỷ đã kể lại thời kỳ của moses đức chúa trời làm một phép lạ kinh hoàng lớn nhất từ trước tới nay đã đi vào lược sử không gian và thời gian mục đích là để mở mang trí khôn cho nhân loại để nhận thức về các thần bí siêu nhiên, ngài đã tách một đại dương thành lối đi băng qua bên bờ đất liền để đưa những người theo Moses thoát khỏi sự rược đuổi chếm giết của quân lính pharaoph. Phép lạ thường xảy ra ở mọi thời đại kể từ thế kỷ của hàng nghìn năm trước và vẫn luôn cho đến thời đại mới này mà hầu hết chúng ta đều bàng hoàng không hiểu nỗi với phép thần thông nào mà một đại dương chia tách ra làm hai. Cho tới bây giờ các nhà vật lý khoa học vẫn khiếp hồn trước một sự thách đố vĩ đại như thế. Vậy thì phép lạ cùng mang một ý nghĩa tương đồng cho nhau là một con dao hai lưỡi, cứu bên này diệt bên khia…cũng như thiện trong ác, ác trong thiện cho dù ai đã tiếp cận với trực giác tâm linh cao siêu, khoa học huyền bí cũng chưa chắc nắm bắt được ý trời.

    Thích

  10. Thiên Chúa, Đức Phật, Thánh A la…đều là những nhà Thông Thái (với nghĩa chính xác nhất của từ này: người mang Thông tin). Họ xuất hiện trong thế giới loài người vào những thời điểm nhất định với mục đích giúp loài người tìm được chính đạo. (Nhưng vì loài người vốn ngu dốt và ngạo mạn nên Thông tin sẽ được hiển lộ ở một số cá thể vĩ đại (trong sạch tuyệt đối và mang niềm xác tín vào Đấng Tối cao). Tính chất siêu tự nhiên của những hiển lộ đó khiến tư duy duy vật hoảng hốt nhưng lại làm cho những ai tin vào Thượng đế hân hoan. Các nhà khoa học tự phụ tự cho mình cái quyền giải thích những hiện tượng siêu nhiên bằng thực nghiệm. Nhưng khả năng của thực nghiệm so với sức mạnh của trực giác chỉ là mẩu thiên thạch bé tẹo với toàn thể vũ trụ. Tin ở Chúa (Phật, Thánh A la…) không phải là sùng bái một cá nhân siêu đẳng mà là xác nhận niềm tin vào khởi nguồn sự sống: Thông tin.

    Thích

  11. Chào anh Hưng,

    Dường như ngoài trang blog của anh ra em chưa tìm được một trang blog nào có tư tưởng phóng khoáng như anh, am hiểu sành điệu về khoa học vật lý đương thời cũng như triết lý thiên văn vũ trụ đa nguyên. Em có một cảm nhận nhân vật anh thích nhất đó là Pascal. Anh đã cố gắng lọt tả hết tư tưởng triết lý tầm độ cao của ông để chuyển tải tới những độc giả yêu thích lý luận về những ngôn từ bí ẩn, một trí óc đã có thể một lần ném trãi cái tính chất siêu nhiên của vũ trụ quan.

    Tất cả những bài viết của anh rất có giá trị bổ ích, rất tiếc là ít ai muốn biết về nó bởi vì tư tưởng của anh quá sâu xa chỉ có thể dựa trên nền tảng triết lý và trực giác mới nắm bắt được những định luật bất thiên của vũ trụ, và những bài nỗi bật đó là bài luận về bản tính thiện, ác, và kế tiếp khởi nguồn ban đầu là Thông Tin.

    Em nghĩ cái nhận xét bằng triết lý của anh rất thông minh tinh tế là tất cả mọi sự sống đều có mang nguồn gốc đó là Thông Tin, nhưng cái Thông Tin này chỉ có chúa Trời / Phật là cột nguồn của sự sáng tạo cái vô cùng nhỏ nhất vô hình cho tới cái vĩ đại nhất của vật chất hiện hữu. Từ cảm xúc theo thể tin thần cho tới cái đau của thể xác đều mang một hàm số phân tử số nghĩa là cái Thông Tin trong cơ thể chúng ta luôn gắn liền mật thiết với hàm số thánh…cho nên tất cả mọi thứ đều nằm trong sự quản lý của Ngài, không ai có cách nào biết nỗi kể cả thuyết của Darwin, và khoa học hiện đại…

    Thông Tin thánh có và hiện diện trong đời sống của thế giới quan con người…nếu ai giải được một bài toán siêu hình thì ắt phải có một cảm nhận rung độ mật thánh, nếu ai giải mã được định luật vô hình của vũ trụ ắt sẻ tìm ra được con đường hy vọng cứu cánh và nếu ai đã từng đau khổ ắt phải biết rắng mình đang gặp khổ hạnh to tát ngoài ý muốn…và cuối cùng chỉ có thời gian là liều thuốc bổ nhưng thời gian chậm hay nhanh trên con đường tìm kiếm dường như là vô vọng và không một ai có thể thoát khỏi sự nguôi ngoai cho nỗi bất hạnh ê chề. Hởi thế gian tình là cái chi chi…mà sao ta cứ lẫn quảnh mãi trong bể dâu…con đường đắng cay gian truân sẻ còn gì cho ta còn gì lại cho người…một kiếp phong trần trở về cái bụi không hồn…chỉ còn lại vài lời dấu yêu tha thiết ta viết bằng máu của trái tim trinh nguyên.

    Thích

  12. Đọc những comment của bạn Anna Đỗ và anh Lamhoangau. Cá nhân tôi thấy như được mở mang hơn, và học được thêm rất nhiều điều.

    Tôi cũng đồng cảm với người chị của bạn Anna Đỗ. Quả thật cuộc sống bây giờ quá bận rộn, bon chen nên rất ít ai biết sống chậm lại để suy nghĩ về chính bản thân mình. Hiện giờ, tôi cũng nhiều lúc tự hỏi về ý nghĩa cuộc sống, hỏi rằng mình vốn là ai, tại sao mình có mặt ở đây, mình có sứ mệnh gì. Hoặc như con người tồn tại là vô nghĩa hay có ý nghĩa, tại sao lại phải thở, phải ăn, phải ngủ ? Có phải con người tồn tại chỉ để lớn lên, kiếm tiền, lập gia đình, sinh con, duy trì nòi giống, và cứ thế lặp lại cái vòng luẩn quẩn ấy ? Thiên đàng và Địa ngục ở nơi đâu ? Liệu sau khi chết ta sẽ mang theo những gì ?
    Tôi hoàn toàn tin Chúa và hiện tại cũng bắt đầu học hỏi về Kinh Thánh. Tôi cảm thấy như từ khi sinh ra Chúa đã chọn tôi và soi sáng cho tôi Lẽ Thật, Chúa đã kéo tôi về phía Ngài. Hiện tại, chúng ta cũng đang sống trong thời kỳ bắt đầu ứng nghiệm với Kinh Thánh rồi. Có hẳn một chùm video trên youtube nói về Chúa và tình hình thế giới hiện nay ( ngày sau rốt sẽ đến gần )
    https://m.youtube.com/channel/UCyqK1mlfiBp9mzHLV4C7_Ug

    Ở phần trước, bác Hưng có nhắc về những trải nghiệm cá nhân của bác. Cháu cũng rất mong một dịp nào đó bác sẽ kể về những trải nghiệm sống động đó cho mọi người cùng biết. Cảm ơn bác vì bài viết trên. Những trường hợp kể trên chỉ là một trong những ví dụ điển hình. Vì trên thế giới vẫn còn rất nhiều hiện tượng siêu nhiên lạ thường mà khoa học hoàn toàn bó tay. Những người theo chủ nghĩa duy khoa học ( scientism ) họ coi khoa học là chúa và nghĩ rằng bất cứ điều gì rồi cũng sẽ được giải thích bằng khoa học. Căn bệnh tự phụ ấy đến nay vẫn còn tồn tại rất nhiều.

    Một lần nữa chúc readers bình an trong Thượng Đế, và mong bác Hưng sẽ có thêm thật nhiều bài viết để giúp mọi người tiếp cận Sự Thật.

    Thích

    • Thân gửi bạn Nam,

      Rất vui vì bạn đang trên con đường tìm kiếm giá trị và ý nghĩa của con người, của sinh mệnh và thậm chí của vũ trụ. Thời nay để có những ý niệm đó trong đầu thật hiếm hoi và đáng quý, rất hiếm hoi. Ta thử nghĩ xem để được làm người đã là vô cùng kỳ diệu và khó khăn, trong hàng tỷ sinh mệnh con người hỏi liệu có bao nhiêu có suy nghĩ muốn tìm về bản chất như vậy?

      Tùy theo duyên mà từng sinh mệnh sẽ có cơ hội tiếp xúc và tín niệm vào các tôn giáo khác nhau. Mình có một người chị trước kia tín ngưỡng là Phật giáo, mà vì theo chồng nên cải đạo sang Công Giáo, từ phía ngoài như mình mà suy nghĩ, có phải các tôn giáo giống như các lớp học không? vì lí do khách quan (không phải tự thân) mà thay đổi, vậy là xong. Vấn đề là ta có thực sự thấm nhuần tư tưởng và lĩnh hội được cái ý niệm sâu xa đúng đắn nhất của tôn giáo đó hay không.

      Ngoài ra còn vấn đề nữa là hiện giờ là thời mạt pháp, nhiều tôn giáo cũng nảy sinh ra, có chính có tà, có cái trước kia là “chính” nhưng vì bị người theo làm cho nhũng nhiều mà trở thành “tà”, khiến cái tư tưởng cao nhất bị che lấp mất đi. Ví dụ như Phật giáo, qua nhiều đời phổ truyền, theo diễn giải và hiểu biết của từng vị sư mà chắc cũng đã sai lệch đi nhiều rồi. Đến mỗi đời vị sư lại viết ra một bộ kinh khác, thể hiện cái quan điểm và tầng hiểu biết của vị đó lên đạo Phật, diễn giải ý của Phật Thích Ca, khiến cho người sau đọc theo kinh đó mà không còn hiểu lên cao được nữa. Đó chẳng phải là đóng khung cái tư tưởng người ta vào đó rồi, và phần nào cản trở người ta đi lên cao hơn sao? Như chú Hưng có nói trong nhiều bài, vì các nhà khoa học gia, tự tin thái quá thiếu sự khiêm tốn và cầu thị nên mới bị bó buộc vào cái khung hiểu biết đó như vậy. Trong tôn giáo cũng vậy thôi, khi anh viết sách ra thì coi như anh nghĩ hiểu biết của anh là đúng rồi, và như thế cơ hội hiểu sâu hơn của anh đã bị hạn chế đi rất nhiều, chưa kể việc lời răn/dậy/giảng từ các chính giáo vốn rất uyên thâm, sâu xa, nhiều hàm nghĩa, bao gồm cả Kinh Thánh và lời giảng của Phật Thích Ca (Phật Thích Ca không hề viết sách, ngài chỉ giảng và sau này các đệ tử ghi chép lại thành kinh phật THEO SỰ HIỂU BIẾT CỦA HỌ).

      Với tất cả sự trân trọng, sự hiểu biết thiện cận của mình trước Công giáo, mình nghĩ Công Giáo hiện giờ cũng gặp vấn đề giống Phật Giáo. Quyển sách Kinh Thánh (nói chung là) chỉ có một nhưng việc đọc hiểu từng câu từng chữ, từng đoạn là do căn cơ của mỗi con người. Thậm chí có khi 2 người hiểu ngược hẳn nhau. Nên chúng ta khi có duyên mong muốn tìm hiểu thì nên hết sức lưu ý. Tốt nhất khi đó, hãy bỏ hết các kiến thức, rào cản, quan niệm cũ của mình thì sẽ lĩnh hội được tốt hơn; đơn giản bởi vì những gì ta đã biết là hiểu biết của con người thông thường, trong khi những gì ta chuẩn bị tiếp nhận là những thứ vượt khỏi người thường.

      Để trả lời cho các câu hỏi về nhân sinh quan của bạn, bạn có thể tìm hiểu các chính Đạo như đã kể trên. Còn với mình, mình thấy Pháp Luân Công (hay còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp) đã trả lời toàn diện và đầy đủ những câu hỏi đó, bên cạnh việc đưa chúng ta trở lại với bản nguyên đức tính tốt đẹp nhất của con người.

      Mình xin mạn phép dẫn lại toàn bộ lời nói đầu trong quyển sách của Pháp Luân Công để bạn cùng tham khảo:

      ““Phật Pháp” tinh thâm nhất, là khoa học huyền bí và siêu thường hơn hết thảy các học thuyết trên thế giới. Nếu khai mở lĩnh vực này, thì cần phải cải biến từ tận gốc quan niệm của người thường; nếu không, chân tướng vũ trụ sẽ vĩnh viễn là điều thần thoại của nhân loại, và người thường vĩnh viễn bò lết trong cái khung do hiểu biết ngu muội của mình dựng nên.
      Vậy “Phật Pháp” đúng ra là gì? Là tôn giáo chăng? Là triết học chăng? Đó chỉ là nhận thức của những “học giả Phật giáo hiện đại hoá” mà thôi. Họ chỉ học lý luận, họ xem đó như phạm trù triết học để vừa phê phán vừa học [tập] và làm những cái gọi là nghiên cứu. Kỳ thực, “Phật Pháp” không chỉ là những gì ít ỏi trong kinh sách, vốn chỉ là Pháp của tầng sơ cấp của “Phật Pháp”. “Phật Pháp” là từ những lạp tử, phân tử đến vũ trụ, từ thứ nhỏ hơn cho đến lớn hơn, nhìn thấu hết thảy điều bí mật, không gì không bao [hàm], không gì bị bỏ sót. Nó là đặc tính “Chân Thiện Nhẫn” của vũ trụ, [với] những luận thuật khác nhau của các tầng khác nhau; cũng chính là điều Đạo gia gọi là “Đạo”, Phật gia gọi là “Pháp”.
      Khoa học của nhân loại ngày nay dẫu phát triển đến đâu, cũng chỉ là một bộ phận của bí mật trong vũ trụ. Mỗi khi chúng tôi đưa ra những hiện tượng cụ thể trong “Phật Pháp”, liền có người nói: “Giờ đã là thời đại điện tử, khoa học rất phát triển, phi thuyền vũ trụ đã bay đến cả những tinh cầu khác, vậy còn giảng chi mấy điều mê tín cũ xưa ấy”. Nói thẳng ra, máy tính dẫu phát triển đến đâu, cũng không sao sánh nổi bộ não người, mà não người cho đến tận bây giờ vẫn là chỗ mê không thể nghiên cứu cho thấu đáo. Phi thuyền vũ trụ dẫu bay cao đến đâu, cũng không thể bay khỏi không gian vật chất này nơi nhân loại chúng ta đang tồn tại. Tri thức của nhân loại hiện đại có thể liễu giải được chỉ là những điều lẻ tẻ vô cùng thiển cận, quá cách biệt với nhận thức chân chính về chân tướng của vũ trụ. Thậm chí có người không dám nh.n thẳng, không dám tiếp xúc, không dám thừa nhận sự thực của những hiện tượng tồn tại một cách khách quan; vì họ quá bảo thủ, không muốn thay đổi quan niệm truyền thống để tư duy. Chỉ có “Phật Pháp” mới có thể khai mở những chỗ mê về toàn vũ trụ, thời-không, và [thân] thể người; Nó có thể thực sự phân biệt thiện và ác, tốt và xấu; phá bỏ hết thảy kiến [giải] sai lầm, đưa ra chính kiến.
      Tư tưởng chỉ đạo về nghiên cứu phát triển của khoa học nhân loại hiện nay chỉ có thể hạn cuộc trong thế giới vật chất; sự vật được nhận thức rồi thì nó mới được nghiên cứu, [người ta cứ] theo lề lối ấy. Nhưng tại không gian chúng ta [có] những hiện tượng [tuy] nhìn không thấy sờ không được, nhưng tồn tại [một cách] khách quan, và lại có khả năng phản ánh đến không gian vật chất chúng ta, [có] biểu hiện hết sức thực tại, [người ta] lại khước từ không động chạm đến, cho đó là những hiện tượng ‘bất minh’. Người cố chấp khăng khăng vô căn cứ tìm lý do để nói rằng đó là hiện tượng tự nhiên; người có dụng ý khác đã trái với lòng mình mà chụp lên mọi thứ cái mũ lớn ‘mê tín’; người ít truy cầu lảng tránh rằng khoa học chưa đủ phát triển. Nếu nhân loại có thể nhận thức lại mới về bản thân và vũ trụ, thay đổi hoàn toàn quan niệm đã cứng nhắc, thì nhân loại sẽ có một [bước] nhảy vọt. “Phật Pháp” cho phép nhân loại thấu triệt thế giới vô lượng vô biên. Từ nghìn xưa đến nay, có thể đưa ra thuyết minh sáng tỏ đầy đủ về nhân loại, mỗi từng không gian vật chất tồn tại, sinh mệnh, cho đến toàn vũ trụ, thì chỉ có “Phật Pháp”.

      Nếu quan tâm thì bạn có thể liên hệ với mình để cùng trao đổi nhé.

      Trân trọng,

      Thích

Bình luận về bài viết này