Intuition, the only real valuable thing / Trực giác, thứ duy nhất thực sự có giá trị

1

In commenting on the discovery of gravitational waves, the website of Boston University exclaimed: “The name Einstein has long been synonymous with genius”. Everyone agrees with this, but once again, the old question raises: How Einstein can have such an extraordinary power of thinking? The answer is… “intuition, the only real valuable thing”, as Einstein himself said.
Bình luận sự kiện khám phá ra sóng hấp dẫn, trang web của Đại học Boston kêu lên: “Cái tên Einstein bao lâu nay vẫn đồng nghĩa với thiên tài”. Mọi người đều tán thành với điều này, nhưng một lần nữa, câu hỏi cũ lại dấy lên: Làm sao Einstein có thể có một sức mạnh tư duy phi thường đến như vậy? Câu trả lời là… “trực giác, thứ duy nhất thực sự có giá trị”, như chính Einstein đã nói.

CHÚ Ý: Toàn bộ các bài viết về SINH HÓA và Thuyết Tiến hóa trên trang PVHg’s Home (viethungpham.com) đã được sắp xếp đầy đủ theo thứ tự thời gian tại địa chỉ sau đây:

True Biology: Nền Sinh học chân chính

 

Trực giác là một khái niệm được mọi người thừa nhận, kể cả người vô thần lẫn hữu thần. Tuy nhiên, người vô thần và hữu thần có cách giải thích khác nhau về bản chất của trực giác. Người hữu thần coi đó là một quà tặng đặc biệt của Chúa, trong khi người vô thần cho rằng trực giác, dù thế nào chăng nữa, cũng chỉ là một dạng thức của tư duy – một dạng hoạt động đặc biệt của bộ não. Vì thế, bản chất của trực giác phụ thuộc vào cấu tạo vật chất của bộ não, và do đó có thể giải thích được bằng khoa học. Đó là lý do để người ta đi tới quyết định sẽ nghiên cứu bộ não của Einstein sau khi ông mất, hòng khám phá xem yếu tố vật chất cụ thể nào đã làm cho Einstein trở thành một thiên tài phi thường đến như vậy. Và quyết định đó đã được thực hiện:

Không đầy 7 tiếng rưỡi đồng hồ ngay sau khi Einstein mất, người ta đã mổ hộp sọ của ông để lấy bộ não mang đi nghiên cứu. Thậm chí đôi mắt của ông cũng bị lấy đi và được giao cho một bác sĩ nhãn khoa. Trong quá trình nghiên cứu, bộ não đã bị cắt ra thành 240 phần, mỗi phần khoảng 1cm3, hiện phần lớn được lưu giữ tại Bảo tàng Quốc gia Mỹ về Sức khỏe và Y khoa, và 46 phần được lưu giữ tại Bảo tàng Mütter ở Mỹ.

Nhưng theo Wikipedia, việc lấy não của Einstein để nghiên cứu đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi, vì người ta không biết chắc chắn việc này có được sự đồng ý của chính Einstein trước khi mất hay không. Trong tiểu sử Einstein viết năm 1979, Ronald Clark nói rằng “ông (tức Einstein) cứ nhất định muốn bộ não của mình được sử dụng để nghiên cứu và xác ông được hỏa táng”, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy điều Clark nói không đúng, và việc bộ não của ông bị lấy đi để nghiên cứu thực ra đã không được phép của cả Einstein lẫn những người thân của ông (xem Wikipedia, Albert Einstein’s brain, Fate of the brain).

Tôi thấy ý kiến của Clark khó tin, bởi làm sao mà Einstein “cứ nhất định” (insist) muốn bộ não của ông phải đem ra nghiên cứu? Thủ tục phẫu thuật thường bao gồm chữ ký tán thành của bệnh nhân hoặc người thân của bệnh nhân. Tại sao trong trường hợp này không thấy nhắc đến, nhất là khi đã có dư luận nghi ngờ. Vả lại, nói như Clark thì xem ra Einstein tự coi mình là một siêu nhân phi phàm, điều này không phù hợp với tính cách khiêm tốn của ông nói chung.

Tóm lại, nếu việc mổ xẻ này mà không được ông và người thân của ông cho phép thì thật là thất đức. Điều khó hiểu hơn nữa là đôi mắt của ông cũng bị lấy đi. Tại sao phải lấy? Chẳng lẽ thiên tài còn phụ thuộc vào đôi mắt nữa ư? Đó là hệ quả của tư duy duy vật và vô thần. Nhưng hãy tạm gác chuyện này để tìm hiểu xem việc nghiên cứu bộ não của Einstein có kết quả gì không.

Kết quả nghiên cứu bộ não của Einstein

Theo Wikipedia, bộ não của Einstein chỉ nặng 1230 grams, nhẹ hơn mức trung bình của một người trưởng thành, vốn là 1400 grams. Từ đó lập tức suy ra rằng khối lượng não, hay cụ thể hơn là số lượng tế bào não, không tỷ lệ thuận với trí tuệ!

Chú ý rằng các nhà tiến hóa rất thích chứng minh sự tiến hóa của khỉ lên người bằng cách chỉ ra kích thước ngày càng lớn của bộ não: não lớn hơn là bằng chứng của sự tiến hóa hơn. Vậy các nhà tiến hóa sẽ nghĩ gì khi biết bộ não của Einstein nhỏ hơn người bình thường?

Cũng nên liên hệ tới số gene của người. Trước khi hoàn thành bản đồ gene người, các nhà khoa học đều nghĩ rằng số gene của con người phải nhiều hơn loài vật rất nhiều. Ý nghĩ này dựa trên một ấn tượng duy vật chủ nghĩa, rằng sinh vật càng phức tạp càng có nhiều gene, sinh vật càng tiến hóa cao càng có nhiều gene. Nhưng khi bản đồ gene được công bố năm 2000, các nhà khoa học đều ngã ngửa: số gene của người cũng xấp xỉ như loài chuột, thậm chí chẳng nhiều hơn loài giun là bao. Thiết nghĩ, đó là một trong những bài học lớn dạy cho loài người rằng tư duy vật chất cân đong đo đếm là một kiểu tư duy thổ thiển ấu trĩ. Nhưng tiếc thay, kiểu tư duy ấy dường như đã thấm vào xương tủy các nhà khoa học duy vật, đến mức không thể thay đổi. Vậy nếu tổng số tế bào của toàn thể bộ não không nói lên được điều gì thì hãy tìm hiểu số lượng tế bào trong từng khu vực đặc biệt của bộ não. Trước sau vẫn quy về số lượng.

Thật vậy, năm 1999, tạp chí y học Lancet của Anh công bố kết quả nghiên cứu của Sandra Witelson và các cộng sự của bà tại Đại học McMaster, Ontario, Canada cho thấy những điều mới lạ về bộ não của Einstein: Phần thuỳ phụ trách tư duy tưởng tượng và tư duy toán học lớn hơn phần thùy của người bình thường 15%. Sự kiện này được xem như một khám phá quan trọng đến nỗi báo chí Úc cũng đưa tin. Tờ Sydney Morning Herald ngày 19/06/1999 viết:

Trong khoa học, kích thước là yếu tố rất quan trọng. Vào khoảng đầu thế kỷ 20 người ta quan tâm rất nhiều đến vấn đề liệu những người có bộ não lớn hơn có thông minh hơn không. Sau Thế Chiến II, việc nghiên cứu chủ đề này gần như bị huỷ bỏ, nhưng gần đây công nghệ hiện đại cho phép xử lý hình ảnh bằng computer nên các nhà khoa học lại hướng vào việc tìm mối tương quan giữa thể tích não và chỉ số thông minh IQ. Sau khi Einstein mất năm 1955, bộ não của ông đã được bảo quản và đo đạc, nhưng người ta không đo thể tích của nó mà chỉ đo trọng lượng. Kết quả cho biết trọng lượng não của Einstein không khác gì mấy so với trọng lượng não của hầu hết mọi người bình thường khác. Các nhà khoa học kết luận: Một bộ não lớn (nặng) không phải là điều kiện thiết yếu để có một trí tuệ phi thường. Vì thế họ đã chuyển sự chú ý vào phần thuỳ của não (parietal lobes), mà theo họ đó là khu vực nhạy cảm có chức năng sản sinh và điều khiển các hình ảnh không gian ba chiều và trình bầy các khái niệm toán học. Điều bất ngờ đã được phát hiện: Phần thuỳ trong não của Einstein rộng hơn 15% so với phần thuỳ trong não của 35 người đàn ông và 50 người đàn bà có trí tuệ bình thường được chọn để nghiên cứu. Bài báo đặc biệt nhấn mạnh rằng khả năng nhận thức về hình ảnh không gian, tư duy toán học và tưởng tượng về chuyển động, tức những nhân tố thiết yếu để phát minh ra Thuyết tương đối, phụ thuộc rất lớn vào phần thuỳ trong não. Thêm một điều đặc biệt nữa: Não của Einstein là trường hợp duy nhất không có đường rãnh “sulcus” ngăn cách phần thuỳ thuộc thái dương (temporal lobe) với phần thuỳ dưới hộp sọ (parietal lobe). Trong não của Einstein, đường rãnh này lại nằm ở một vị trí khác. Các nhà khoa học suy đoán rằng sự vắng mặt đường rãnh tại phần thuỳ có thể cho phép hình thành thêm nhiều neuron thần kinh tại khu vực này, thiết lập nên một kênh thông tin nối liền các phần não với nhau để cùng làm việc chung một cách dễ dàng, tạo ra một khu vực rộng phi thường trên vỏ não có khả năng tổng hợp cao.

Kết quả nghiên cứu nói trên có giải thích được điều gì về thiên tài của Einstein không?

Theo tôi là KHÔNG! Nó chỉ nói lên được một điều, rằng một bộ não có cấu tạo thể chất tốt sẽ có khả năng hoạt động nhạy bén, tức là có chỉ số IQ cao. Nhưng chỉ số IQ và ý thức là hai vấn đề hoàn toàn khác xa nhau. Trong thực tế, có người có chỉ số IQ cao không những không đem lại lợi ích gì cho xã hội mà thậm chí còn làm hại xã hội. Tương tự như một chiếc computer tốt không có nghĩa là nó chứa đựng hoặc đưa ra những thông tin hữu ích.

Tóm lại, việc giải mã thiên tài của Einstein không thể dựa vào những yếu tố vật chất, vì thực ra ý thức và trực giác của con người là những hiện tượng hoàn toàn phi vật chất. Để hiểu biết bản chất của ý thức và trực giác, phải có phương pháp tiếp cận phi vật chất.

Bản chất của ý thức và trực giác

Loài người đã tiến rất xa trong việc khám phá bí mật của tự nhiên nhưng hầu như chẳng tiến được bước nào trong việc tìm hiểu chính mình. Cho đến nay, khoa học vẫn chưa có một lời giải thích nào thỏa đáng về bản chất của ý thức, cái làm nên giá trị người nhiều nhất, và có thể sẽ không bao giờ có. Tại sao vậy?

Vì khoa học tự trói buộc mình trong thế giới vật chất, trong khi ý thức là một thực tại khách quan phi vật chất, nằm ngoài thế giới vật chất. Không thể dùng vật chất để tác động tới thế giới phi vật chất.

Cụ thể hơn, tôi cho rằng ý thức thuộc một tầng nhận thức cao hơn khoa học. Chẳng hạn, thiền sẽ giúp ta tiệm cận tới bản chất của ý thức. Hoặc các suy niệm tâm linh cũng giúp chúng ta chứng ngộ ý thức là gì. May mắn hơn, nếu chúng ta được mặc khải bởi các lực lượng siêu nhiên. Muốn thế thì điều kiện tiên quyết là phải rũ bỏ cái áo chật hẹp của chủ nghĩa duy vật, cho phép tư tưởng được hoạt động tự do, dựa trên những gì ta có thể cảm nhận được.

Cảm nhận giúp ta khám phá chân lý chứ không phải lý lẽ logic. Không cần phải thuyết phục ai, nếu người ấy không thể hoặc không muốn học hỏi bằng con đường cảm nhận. Charlie Chaplin nói: “Chúng ta tư duy nhiều quá nhưng cảm nhận ít quá” (We think too much and feel too little).

Có những người thích rao giảng khoa học bằng ngôn ngữ hàn lâm khó hiểu. Ấy là vì họ tư duy nhiều quá mà cảm nhận ít quá. Einstein khuyên: “Nếu bạn không thể trình bầy một vấn đề sao cho đơn giản, ấy là vì bạn chưa thấu hiểu vấn đề đó” (If you can’t explain it simply, you don’t understand it well enough).

Vậy tôi xin trình bày những gì tôi cảm nhận. Dưới ánh sáng của Định lý Bất toàn của Kurt Gödel và Lý thuyết Thông tin, tôi cho rằng:

● Một, phải khẳng định dứt khoát như Gödel, rằng chủ nghĩa duy vật – hệ tư tưởng cho rằng toàn bộ vũ trụ là vật chất và chỉ có vật chất – là một thế giới quan sai lầm. Lý thuyết thông tin chỉ ra rằng thông tin là một thực tại khách quan phi vật chất, tồn tại độc lập với vật chất. Đây là một kết luận mang tính cách mạng, mở ra một thế giới mới, bao gồm những thực tại phi vật chất. Trong thế giới mới này, những nguyên lý của khoa học vật chất không còn thích hợp nữa. Vì thế, việc đối lập duy vật với duy tâm là một kiểu nhận thức đã lỗi thời. Trong thời đại ngày nay, nên kết hợp mọi dạng nhận thức, miễn là tiếp cận càng tới gần sự thật càng tốt.

● Hai, ý thức là một thực tại khách quan phi vật chất. Ý thức có nhiều đặc điểm của thông tin. Nhiều nguyên lý của thông tin có thể áp dụng để giải thích các hiện tượng thuộc về ý thức. Ý thức có thể là một dạng siêu thông tin.

● Ba, vì mọi thông tin đều có nguồn, nên ý thức cũng có nguồn của nó. Nguồn của ý thức có thể là một lực lượng siêu tự nhiên mà nhân loại từng sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau để gọi tên, như Thượng đế, Đấng Tối cao, Chúa, Đấng Sáng tạo, Brahma, Jehovah, Allah, Bà Mẹ Tự nhiên, Nhà thiết kế vĩ đại… Bộ não của con người không phải là nguồn của ý thức, cũng không phải là cỗ máy sản xuất ra ý thức, mà chỉ là một bộ máy tiếp nhận, xử lý, chuyển giao thông tin.

Thí dụ: Thuyết tương đối là một sản phẩm cao cấp của ý thức. Xét cho cùng nó là một tệp tin (một file) về tự nhiên. Bộ não của Einstein nhận được những thông tin của tệp tin đó, xử lý nó, và chuyển giao cho chúng ta. Câu hỏi đặt ra là tại sao chỉ có bộ não của Einstein nhận được hoặc xử lý được tệp tin đó, mà không phải chúng ta?

Một lần nữa câu trả lời là: TRỰC GIÁC!

Ai cũng thừa nhận có trực giác, nhưng không ai biết bản chất của trực giác là gì. Bản thân Einstein rất nhiều lần nhắc đến trực giác, chứng tỏ ông rất chú ý đến hiện tượng này, rất coi trọng nó, nhưng ông thú nhận rằng ông cũng không biết gì về bản chất của nó. Hãy lắng nghe ông nói.

Tư tưởng về trực giác của Einstein

● “Thứ duy nhất thực sự có giá trị là trực giác” (The only real valuable thing is intuition)

● “Tri thức đóng vai trò thứ yếu trên con đường khám phá. Có một bước nhảy vọt trong ý thức, được gọi là trực giác hoặc gọi thế nào tùy bạn, lời giải đến với bạn mà bạn không biết như thế nào và tại sao… thứ có giá trị thực sự là trực giác” (The intellect has little to do on the road to discovery. There comes a leap in consciousness, call it intuition or what you will, the solution comes to you and you don’t know how or why… the truly valuable thing is the intuition).

albert-einstein-physicist-there-is-no-logical-way-to-the-discovery-of-these● “Tôi tin vào trực giác và cảm hứng… Những lúc đó tôi cảm thấy chắc chắn tôi đúng mặc dù không hiểu tại sao” (I believe in intuition and inspiration… At times I feel certain I am right while not knowing the reason).

● “Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng và tư duy lý lẽ là một tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội vinh danh tên đầy tớ và bỏ quên món quà tặng” (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honors the servant and has forgotten the gift).

● “Không có con đường logic để khám phá ra những định luật cơ bản này. Chỉ có duy nhất con đường của trực giác, được trợ giúp bởi một cảm giác về cái trật tự nằm đằng sau vẻ bề ngoài” (There is no logical way to discover of these elementary laws. There is only the way of intuition, which is helped by a feeling for the order lying behind the appearance).

● “Một ý tưởng mới thình lình xuất hiện và đúng ra là theo cách trực giác, nhưng trực giác chẳng là gì ngoài kết quả của những trải nghiệm trí thức trước đó” (A new idea comes suddenly and in a rather intuitive way, but intuition is nothing but the outcome of earlier intellectual experiences).

● “Điều ấy xẩy đến với tôi nhờ trực giác, và âm nhạc là động lực đằng sau trực giác. Khám phá của tôi là kết quả của nhận thức âm nhạc” (It occurred to me by intuition, and music was the driving force behind that intuition. My discovery was the result of musical perception)

Đọc những ý kiến của Einstein, tôi nghĩ ông không chỉ là một thiên tài khoa học, mà còn là một nhà hiền triết thâm thúy và sâu sắc. Tôi ghét triết lý sách vở bao nhiêu thì yêu thích những triết lý thiết thực bấy nhiêu. Triết lý của Einstein về trực giác là những triết lý rất thiết thực, làm sáng tỏ nhiều mảng tối trong nhận thức, đáng để cho người đời suy ngẫm và học hỏi.

Bình luận của PVHg’s Home về trực giác

● Einstein nói “Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng…”. Vậy đó là quà tặng của ai? Nếu quà tặng đó là thiêng liêng thì người tặng hoặc nguồn tặng ắt phái rất cao quý, siêu nhiên. Tại sao Einstein không nói rõ? Phải chăng ông tế nhị, tránh va chạm với những người vô thần, vốn rất đông xung quanh ông trong giới khoa học nửa đầu thế kỷ 20?

Như trên đã nói, để mở rộng hiểu biết, ta phải cởi bỏ chiếc áo chật hẹp của chủ nghĩa duy vật, vậy tôi xin mạn phép “làm đầy đủ” câu nói của Einstein như sau:

Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng của Tạo Hóa / Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng của Chúa…

Người Đông phương thường nói trực giác là cái năng khiếu Trời phú cho. Ta không thấy Ông Trời ở đâu cả, nhưng ta tin có Ông Trời phú cho ta nhiều năng khiếu khác nhau. Tổ tiên chúng ta nói thế, không lẽ tổ tiên chúng ta bịa đặt ư? Người vô thần cũng thường sử dụng chữ “thiên tài” để ca ngợi những tài năng đặc biệt mà họ ngưỡng mộ và tôn kính. Nhưng “thiên tài” là gì nếu không phải là tài năng Trời phú? Vậy cớ sao lại nói không có Ông Trời, không có Thượng Đế. Có người biện bác nói rằng Đức Phật nói không có Thượng đế. Theo tôi, những người này nói sai. Đức Phật không nói thế. Xin các nhà nghiên cứu về Phật giáo lên tiếng.

● Einstein phàn nàn rằng chúng ta đã tạo ra một xã hội bỏ quên món quà tặng. Đó là một lời phê phán nhẹ nhàng, tế nhị. Nếu nói thẳng, nói mạnh, thì phải nói rằng chủ nghĩa duy vật thô thiển đã tước bỏ vai trò của Đấng Sáng tạo, do đó không đề cao vai trò của trực giác. Điều này biểu hiện rõ nhất trong nền giáo dục hiện đại. Phương pháp giáo dục bây giờ nặng về nhồi nhét tri thức, tức là coi trọng “tên đầy tớ”, trong khi sao nhãng hoặc thiếu khả năng đánh thức người học, không biết kích thích trực giác, tức là bỏ quên “quà tặng thiêng liêng”. Kurt Gödel có ý nghĩ gần như Einstein, nhưng nói một cách thẳng thắn hơn, mạnh mẽ hơn, bộc trực hơn: “Chủ nghĩa duy vật là sai lầm” (Materialism is false).

Tóm lại, nếu thừa nhận trực giác tồn tại, thì không thể không thừa nhận sự hiện hữu của Chúa. Bởi trực giác chính là quà tặng thiêng liêng của Chúa.

● Nếu trực giác là thứ duy nhất thực sự có giá trị (mà tôi tin đúng là như thế) thì mọi thứ bằng cấp danh hiệu đều chỉ là những thứ trang sức phù phiếm. Bằng cấp là thước đo tri thức (vinh danh tên đầy tớ), chủ nghĩa bằng cấp và thói háo danh là một biểu hiện của sự vô minh của con người, bởi nó không ý thức được rằng thứ duy nhất có giá trị thực sự là trực giác, quà tặng thiêng liêng của Đấng Sáng tạo.

● Không nên nhầm lẫn khái niệm trực giác với sự suy diễn bề ngoài. Chẳng hạn, quan niệm về biến dị và di truyền của Darwin không xuất phát từ trực giác, mà xuất phát từ suy diễn. Darwin trông thấy những biến đổi nhỏ trong thế giới sinh vật, rồi suy diễn ra rằng những biến đổi nhỏ ấy tích tụ dần trong một thời gian dài hàng trăm triệu năm hoặc hàng tỷ năm để trở thành những biến đổi lớn, biến loài này thành loài khác, tức là tiến hóa. Câu chuyện về cái cổ của hươu cao cổ là thí dụ điển hình cho kiểu suy diễn của Darwin. Nếu phải biện hộ cho Darwin thì có một cách tiện lợi nhất, ấy là đổ hết các sai lầm cho Lamarck, vì thực tế là Darwin đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi quan niệm di truyền sai lầm của Lamarck. Thật vậy, sai lầm vô cùng lớn của Lamarck là ở tư tưởng cho rằng những biến đổi do ngoại cảnh đem lại (biến đổi không bẩm sinh) có thể di truyền cho các thế hệ sau. Thí dụ: Một động vật nào đó chẳng may bị cụt một chân, thì sự biến đổi này có thể di truyền cho thế hệ sau, thông qua đường máu. Darwin đã tiếp thu tư tưởng di truyền sai lầm đó, để từ đó tạo nên lý thuyết chọn lọc tự nhiên – sinh vật có xu hướng chọn lọc những biến dị có lợi, để rồi biến dị ấy được di truyền cho đời sau, tích tụ qua nhiều đời thành một biến đổi lớn. Giới tiến hóa ngày nay đánh lận con đen, gọi những biến đổi trong loài là vi tiến hóa (micro-evolution), và biến đổi lớn, tức biến đổi từ loài này thành loài khác, là tiến hóa vĩ mô (macro-evolution). Thực tế hoàn toàn không có tiến hóa nào cả, dù là vĩ mô hay vi mô. Cái gọi là “vi tiến hoá” chỉ là cách chơi chữ, đặt tên để cứu vãn thuyết tiến hóa. Thực tế đó chỉ là sự biến đổi trong loài, và không hề có sự tiến bộ nào trong những biến đổi này để gọi đó là vi tiến hóa.

● Không nên nhầm lẫn khái niệm trực giác với trí tưởng tượng. Thí dụ, tư tưởng cho rằng sự sống có thể hình thành từ vật chất không sống, mà trong sinh học gọi là lý thuyết sự sống hình thành tự phát (spontaneous generation), là một sự tưởng tượng 100%. Chẳng hạn từ một xác động vật chết ta thấy xuất hiện dòi bọ. Trí tưởng tượng của người Hy Lạp cổ đại cho rằng dòi bọ đã ngẫu nhiên hình thành từ không khí xung quanh xác động vật chết. Trong thế kỷ 19, Louis Pasteur đã chứng minh rằng trí tưởng tượng đó hoàn toàn sai, và ông khẳng định sự sống chỉ có thể ra đời từ sự sống. Đó là định luật nguồn gốc sinh học của sự sống (biogenesis). Nhưng thuyết tiến hóa vẫn tiếp tục theo đuổi lý thuyết sự sống hình thành tự phát, họ biến lý thuyết này thành giả thuyết “nồi soup nguyên thủy”, hay còn gọi là lý thuyết về nguồn gốc sự sống, thậm chí khoác một cái tên kêu hơn, đó là “thuyết tiến hóa hóa học” (chemical evolution). Thực chất, đây là sự ngụy biện cho một trí tưởng tượng ngây thơ từ thời cổ đại.

● Tất cả các nhà khoa học có những đóng góp thiên tài đều có trực giác thiên tài và đều thừa nhận vai trò quyết định của trực giác trong sáng tạo khoa học.

Blaise Pascal gọi trực giác bằng một cái tên văn chương hơn, đó là “lý lẽ của trái tim” (la raison du Coeur). Ông tuyên bố: “Trái tim có những lý lẽ mà lý lẽ chẳng hiểu gì cả” (Le coeur a ses raisons que la raison ne connait point). Pascal không chỉ có trực giác khoa học thiên tài, mà còn có trực giác tâm linh sâu sắc [để biết rõ điều này, xin đọc “Lửa của Pascal” trên PVHg’s Home ngày 16/12/2013]. Với trực giác đó, ông có một đức tin tôn giáo mạnh mẽ, đến nỗi ông cho rằng ai không có đức tin sẽ vô cùng thiệt thòi. Ông nói : « Nếu Chúa không tồn tại, thì dẫu sao bạn cũng chẳng mất gì khi tin Ngài; nhưng nếu Chúa tồn tại, bạn sẽ phải chịu mất tất cả nếu không tin Ngài » (If God does not exist, one loses nothing by believing in Him anyway; While if God exists, one stands to lose everything by not believing). Ông cho rằng biết có Chúa chưa đủ. Phải yêu kính Chúa mới thật sự là có đức tin. Ông nói: “Từ chỗ biết Chúa đến chỗ yêu kính Chúa vẫn còn quá xa” (The knowledge of God is very far from the love of God). Lấy tiêu chuẩn của Pascal làm thước đo, ta có thể nhận xét rằng Einstein tuy có trực giác siêu việt về thế giới vật chất – toàn bộ thế giới vật chất đã được ông tóm gọn trong công thức E = mc2 – nhưng trực giác tâm linh còn thấp. Thật vậy, Einstein tin có Đấng Sáng tạo nhưng không có tinh thần yêu kính Chúa.

Henri Poincaré, một trong những nhà toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại, người từng được mệnh danh là “con quỷ toán học” và “Mozart của toán học”, xác định rất rõ vài trò tiên phong của trực giác trong sáng tạo qua tuyên bố sau đây: “Nhờ logic ta chứng minh, nhờ trực giác ta khám phá” (C’est par la logique que nous prouvons; c’est par l’intuition nous inventons).

Louis Pasteur, người có trực giác thiên tài khi tiên đoán rằng tính bất đối xứng (thuận tay trái) là đặc trưng của sự sống. Sau hơn một thế kỷ rưỡi kể từ khi ông nêu lên nhận định đó, toàn thể giới sinh học đều thừa nhận đó là một định luật của sự sống. Thậm chí ông còn muốn khái quát định luật đó cho toàn bộ vũ trụ, rằng vũ trụ là bất đối xứng. Ông lấy làm tiếc đã không tiếp tục phát triển tư tưởng này đến mức hoàn chỉnh. Hết sức bất ngờ, vật lý hiện đại cũng đi tới kết luận vũ trụ bất đối xứng. Tôi sẽ trình bày vấn đề này trong một dịp khác.

Giới tiến hóa trong thâm tâm rất ghét Pasteur, một phần vì ông là người có tư tưởng tôn giáo sâu sắc, phần khác vì các định luật của ông tự động bác bỏ thuyết tiến hóa. Nhưng họ không có cách nào chống lại định luật sự sống thuận tay trái. Chừng nào không giải thích được tại sao sự sống thuận tay trái thì chừng ấy thuyết tiến hóa sẽ không thể chứng minh được nguồn gốc sự sống. Tuy nhiên Pasteur nhắc nhở chúng ta rằng: “Trực giác chỉ đến với những ai đã dày công chuẩn bị để đón nhận nó” (Intuition is given only to him who has undergone long preparation to receive it). Không thể có trực giác toán học nếu bạn không say mê toán học đến mức hiến dâng sức lực cho nó, thậm chí hiến dâng cuộc đời cho nó. Làm sao có thể có một thiên tài âm nhạc không dâng hiến cuộc đời cho âm nhạc?

● Không chỉ vĩ nhân mới có trực giác. Tất cả chúng ta đều có trực giác, chỉ khác nhau ở mức độ và thiên hướng mà thôi. Có người có trực giác mạnh trong âm nhạc, có người có trực giác mạnh trong toán học,… Kinh tế là lĩnh vực đòi hỏi trực giác rất cao. Nhiều người học hành ít nhưng có trực giác cực kỳ nhạy bén về làm ăn lỗ lãi mà các tiến sĩ kinh tế học không có. Nếu so sánh hai giới, ta thấy dường như phụ nữ có thiên hướng tư duy trực giác nhiều hơn, nam giới có xu hướng tư duy lý trí nhiều hơn, do đó phụ nữ tình cảm hơn và thực tế hơn, nam giới lý luận và viển vông hơn.

6 copyMarilyn Monroe, cô đào điện ảnh nổi tiếng nhất thế kỷ 20, đã nói thay mọi phụ nữ, rằng “Phụ nữ nhận thức bằng trực giác, hoặc bản năng, cái tốt nhất đối với cô ta” (A woman knows by intuition, or instinct, what is best for herself). Vì thế trong nhiều trường hợp, phụ nữ cảm nhận được sự thật nhanh hơn nam giới, hoặc chính xác hơn nam giới. Điều này hoàn toàn trái với quan điểm của Darwin cho rằng phụ nữ kém tiến hóa so với nam giới. Vì thế, mỗi người nên biết rõ điểm mạnh, điểm yếu của mình để hợp tác với cộng đồng, tạo nên một xã hội vững mạnh. Một xã hội tốt là xã hội biết tạo điều kiện để mỗi cá nhân phát huy được điểm mạnh của mình và cùng hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau làm nên một xã hội văn minh và tiến bộ. Vì thế, đề cao quy luật đấu tranh sinh tồn là phản lại xã hội, chống lại con người.

● Trong sáng tạo văn học nghệ thuật, trực giác đóng vai trò cốt yếu đến mức có thể đưa ra một lời khuyên rằng nếu bạn không có trực giác trong lĩnh vực này thì bạn không nên bước vào đó. Trực giác ở mức thấp có thể gọi là năng khiếu. Cao hơn, trực giác có thể tạo ra những khoảnh khắc ngẫu hứng thần kỳ. Trong tiểu sử Ludwig Van Beethoven, tôi nhớ nhất một chi tiết kể rằng, tại một salon quý tộc, Beethoven đã lật ngược một bản nhạc mà trước đó một danh cầm người Pháp vừa biểu diễn. Ông chơi câu đầu tiên của bản nhạc lật ngược đó, tất nhiên đó là một dãy nốt rất vô nghĩa, nhưng từ một chủ đề vô nghĩa ấy, ông bắt đầu biến tấu, sáng tác, vừa chơi vừa sáng tác, vừa chơi vừa biến hóa, thành những nét nhạc kỳ diệu, trước sự kinh ngạc của đám khách khứa có mặt. Hầu như tất cả các nhạc sĩ lớn như Mozart, Beethoven, Chopin,… đều có khả năng sáng tác và biểu diễn ngẫu hứng như thế. Những nghệ sĩ biểu diễn đoạt các giải thưởng âm nhạc quốc tế như Tchaikovsky, Chopin,… cũng là những người có trực giác âm nhạc rất nhạy bén, nhưng có lẽ không thể so sánh với các nhạc sĩ sáng tác bậc thầy. Điều này giới âm nhạc biết rõ hơn ai hết.

Trong hội họa, trực giác của họa sĩ cũng lộ ra rất rõ qua tranh vẽ. Đó là cái mà giới hội họa thường gọi là “cá tính”. Vincent Van Gogh là một trong những họa sĩ biểu lộ cá tính mạnh nhất. Ông nói: “Tôi mơ bức tranh của tôi và tôi vẽ giấc mơ đó” (I dream of my painting and I paint my dream).

2

Giới biểu diễn sân khấu cũng đòi hỏi những phút ngẫu hứng xuất thần. Nếu phải bỏ phiếu bầu một nghệ sĩ vĩ đại nhất của mọi thời đại, tôi không cần đắn đo mà bầu ngay Charlie Chaplin. Chỉ cần một “Ánh đèn sân khấu” (Limelight) của ông là đủ để thấy cái vĩ đại đó. Đó là một câu chuyện cảm động rớt nước mắt nhưng đầy chất nhân bản, chan chứa tình người, tình yêu thương, đem lại cho ta một niềm hy vọng vào cái Thiện, cái Đẹp trong cuộc sống, khuyến khích ta đứng thẳng người lên để sống. Những đoạn hội thoại đầy ắp triết lý nhân sinh. Âm nhạc tha thiết, da diết, thanh khiết, gợi lên một thế giới thanh cao để vươn tới. Khó có giai điệu nào đẹp hơn thế nữa. Ông Calvero trong phim (chính là Chaplin) chơi violin hay đến mức tôi tưởng đó là Nicolo Paganini sống lại. Tất cả đều do Chaplin – một mình ông kiêm tất cả các vai trò quan trọng nhất của một bộ phim: đạo diễn, tác giả kịch bản, diễn viên chính, tác giả nhạc phim, người chơi nhạc cho phim. Nếu không phải là một thiên tài do Chúa tạo ra, liệu có thể có một người chịu khó học hành để thành tài như thế không? Vậy mà Chaplin cũng chỉ được trao tặng một Giải Oscar cho toàn bộ sự nghiệp. Suy ra rằng các giải thưởng chỉ phản ánh được một phần nào sự thật mà thôi. Chỉ có những ai biết rõ tài năng là gì, trực giác là gì, thế nào là một món quà của Chúa, thế nào là một quà tặng thiêng liêng,… chỉ những người ấy mới biết thưởng thức giá trị của các tài năng.

4Để kết phần này, tôi xin trích ý kiến của một diễn viên điển ảnh nổi tiếng trong thấp kỷ 1950-1960. Đó là Ingrid Bergman. Bà nói: “Bạn phải rèn luyện trực giác của bạn – bạn phải tin vào tiếng nói nhỏ nhẹ bên trong bạn, nó nói với bạn một cách chính xác nên nói gì, quyết định gì” (You must train your intuition – you must trust the small voice inside you which tells you exactly what to say, what to decide).

Thay lời kết

Xem thế thì thấy nhà khoa học chân chính và nghệ sĩ chân chính rất giống nhau: họ đều có trực giác nhạy bén để khám phá ra chân lý, cái đẹp và cái thiện. Một cách tổng quát, ta có thể thấy Thuyết Tương đối của Einstein là một tác phẩm nói về Cái Đẹp của Tự nhiên. Cái đẹp ấy không chỉ biểu lộ ở công thức toán học rất đơn giản, cân đối và gọn đẹp của ông, mà còn ở tư tưởng toát ra từ lý thuyết ấy – một tư tưởng bao trùm vũ trụ, giống như một bức tranh hoành tráng mô tả vũ trụ. Ai từng có niềm đam mê ngắm bầu trời đầy sao đều có thể đam mê thưởng thức Thuyết Tương đối Tổng quát, bởi bản chất Cái Đẹp là Một.

Và thú vị thay khi ta thấy Albert Einstein, một bậc kỳ tài trong thiên hạ, lại tỏ ra mến phục và ngưỡng mộ Charlie Chaplin đến mức xin gặp Chaplin bằng được. Chaplin đã nhận lời và hai ông đã gặp nhau. Chaplin đưa Einstein đến phim trường của ông để tham quan. Trên đường đi, Einstein nói với Chaplin: “Ông là một người vĩ đại, vì đã sáng tạo ra những câu chuyện cười ra nước mắt mà ai cũng hiểu”. Chaplin đáp: “Ông cũng là một người vĩ đại, vì đã sáng tạo ra những phương trình không ai hiểu nổi”.

5Câu chuyện trên có nhiều dị bản. Dị bản sau đây có lẽ gần với sự thật hơn, và thú vị hơn:

Einstein: “Điều tôi ngưỡng mộ nhất về nghệ thuật của ngài là ở chỗ ngài không nói một lời nào, ấy thế mà… toàn thế giới hiểu ngài” (What I admire most about your art is that you do not say a word, and yet… the world understands you).

Chaplin: “Đúng thế… nhưng danh tiếng của ngài còn lớn hơn. Toàn thế giới ngưỡng mộ ngài trong khi không ai hiểu ngài” (It’s true… but your fame is even greater. The world admires you, when nobody understands you).

Nhưng dù sự thật chính xác là như thế nào thì hai bậc kỳ tài đó đã gặp nhau – hai tư tưởng lớn gặp nhau. Một người hướng ra vũ trụ ngoài tự nhiên, một người hướng vào vũ trụ trong lòng người, nhưng cùng được nhận món quà thiêng liêng của Thượng đế, thứ duy nhất thực sự có giá trị, đó là TRỰC GIÁC!

Chúc bạn được Chúa ban cho một trực giác tuyệt vời để thưởng thức Cái Đẹp của vũ trụ cũng như Cái Đẹp trong tâm hồn con người!

PVHg, Sydney 03/03/2016

63 thoughts on “Intuition, the only real valuable thing / Trực giác, thứ duy nhất thực sự có giá trị

  1. lạy chúa bài viết quá tốt, có một đặc điểm của bài viết này là nó không phải là một bài viết phổ thông, mà chỉ những ai thực sự sở hữu một trực giác tốt và trải nghiệm nó mới hiểu hết được (giống như ko có đức tin mà nghe giảng đạo thì cũng bằng không). Tôi cũng là một người có trực giác tốt về khoa học nhưng ko phải khoa học tự nhiên mà là khoa học xã hội, và cái nhánh nhỏ mà trực giác của tôi phát huy được là khoa học hành vi và khoa học nhận thức (có liên quan đến tâm lý một chút)

    Nhận thức nhân loại nếu như nó là một thực thể thì nó sẽ có đường bao, nghĩa là sự giới hạn, thế giới thực luôn luôn rộng lớn hơn cái đường bao đó nhiều, và cái thế giới thực đó luôn luôn tác động đến chúng ta, lay động trực giác của chúng ta, những vĩ nhân có trực giác tốt họ nhận ra những chân lý của thế giới thực ngoài kia mà nằm ngoài đường bao đó, từ đó họ mở rộng đường bao của nhận thức nhân loại, đó chính là công lao mà ta gọi là khai sáng, ví dụ như Einstein đã khai sáng cho nhân loại với thuyết tương đối của ông (ko nên gọi là phát minh, phát minh chỉ dành cho những người tạo ra những tổ hợp mới ko có trong tự nhiên mà thôi, vd như James Watts phát minh ra máy hơi nước chẳng hạn).

    Kể một câu chuyện vui về cái trực giác của tôi, sau nhiều lần cố giúp người ta mà ko đc, trực giác của tôi khiến tôi tìm ra một điều thuộc về khoa học hành vi nằm ngoài đường bao tư duy của tôi lúc đó (ko ai bảo tôi cả và cũng có thể nhiều người đã biết rồi), đó là : đừng bao giờ cố giúp đỡ người khác nếu như họ thật sự không cần đến sự giúp đỡ của mình, mặc dù đúng là mình nhìn thấy họ đang lầm đường lạc lối, vì có thể đó là số phận của họ rồi, chỉ khi nào họ cần đến sự giúp đỡ của ta, lúc đó sự giúp đỡ của ta mới thực hiện đc mà thôi.

    cảm ơn bác vì một bài viết hay !

    Đã thích bởi 3 người

    • Cám ơn bạn Hoàng Việt. Ý kiến của bạn về đường bao của nhận thức là một ý kiến hay, và vô tình trùng với ý kiến của Carl Jung, một nhà tâm lý học nổi tiếng người Thụy Sĩ trong thế kỷ 20. Ông nói: “Intuition does not denote something contrary to reason, but something outside of the province of reason” (Trực giác không biểu thị một cái gì trái ngược với lý trí, mà một cái gì nằm ngoài vùng lý trí).
      Một dịp nào đó tôi sẽ dẫn ý kiến của Carl Jung trong một bài viết mới, vì vấn đề trực giác là một chủ đề thú vị, cần phải tiếp tục.
      PVHg

      Đã thích bởi 2 người

      • Cháu chào bác Việt Hưng,
        Đọc toàn bài của chú cháu thấy hay.
        Cháu có câu hỏi này với bác mong bác nếu biết thì cho cháu biết: làm cách nào để có trực giác tốt hay có phương pháp thật sự để có trực giác cho bất cứ người bình thường nào như cháu không?
        Tiện thể cháu không phải là người vô thần hay hữu thần, vì cháu không biết mình thuộc loại nào, cháu đã quy y cửa Phật, học giáo lý của Đức Phật nhưng đồng thời cũng học giáo lý của Chúa, cũng như hiện nay là nhà quản lý bình thường trong một công ty bình thường nhưng rất hứng thú vớ đề tài này từ lâu, nhưng cháu không biết tại sao mình lại hứng thú như vậy,có lẽ trực giác chăng?

        Thích

      • Ai cũng có trực giác, chỉ có ít hay nhiều và hướng vào đâu mà thôi. Bạn hãy nhìn vào nội tâm của bạn để xem xem bạn nhạy cảm với cái gì nhất. Bạn nhạy cảm với cái gì thì đó chính là bạn có trực giác tốt về cái đó. Các ông thầy là những người có nhiệm vụ khai mở trực giác cho chúng ta, nhưng đáng tiếc là nhiều ông thầy không làm việc đó, mà chỉ nhồi nhét hàng đống chữ nghĩa vô nghĩa vào đầu chúng ta. Vậy để rèn luyện tăng cường trực giác, ta phải tập trung tư tưởng vào cái mà ta muốn tìm hiểu. Bạn càng tập trung tư tưởng vào cái đó bao nhiêu thì trực giác của bạn về cái đó càng mạnh thêm bấy nhiêu.

        Đã thích bởi 1 người

  2. Pingback: Nhà toán học lớn nhất thế kỷ 20: “Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm” - Pháp luật & Cuộc sống

  3. Pingback: Nhà toán học lớn nhất thế kỷ 20: “Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm” | Khoa học và Tu luyện

  4. Pingback: Nhà toán học lớn nhất thế kỷ 20: “Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm” | Nhận thức là một quá trình...

  5. tất cả những gì bạn đang sử dụng và mang đến niềm vui cho bạn hàng ngày đều từ chủ nghĩa duy vật tồi tệ ra cả đấy!

    Đã thích bởi 1 người

    • Bạn nhầm rồi. Tất cả những gì bạn đang sử dụng và mang đến niềm vui cho bạn hàng ngày không phải do chủ nghĩa duy vật tạo ra, mà do lao động sáng tạo của con người tạo ra. Lao động sáng tạo và chủ nghĩa duy vật là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Những nhà khoa học có những sáng tạo vĩ đại nhất như Newton, Pascal, Pasteur, Einstein, Edison, Tesla,… đều phủ nhận chủ nghĩa duy vật và đều tin có Thượng Đế.

      Thích

  6. Chú ơi, cuốn sách The Eternal Law này có bản tiếng việt không ạ? Cháu muốn đọc cuốn này nhưng tiếng anh của cháu k đủ để đọc ạ.
    Nếu có bản tiếng Việt thì chú có thể cho cháu biết ở Hà Nội có nơi nào bán mà chú biết không ạ?
    Cháu cảm ơn chú nhiều ạ.

    Thích

  7. Ôi ! Chú Hưng ! Cháu chào chú ạ !
    28 năm rồi cháu mới gặp lại chú qua bài viết “chủ nghĩa duy vật là sai lầm”. Có lẽ chú không nhớ cháu là ai trong số lớp lớp học sinh chú đã từng dạy. Nhưng một học sinh tử tế thì chẳng bao giờ quên người thầy.

    Cháu tình cờ đọc bài viết này trên trang Đại kỷ nguyên. Cháu đọc không sót một chữ nào cả và thán phục bài viết về mọi mặt, và cũng bởi vì cháu rất đồng cảm, đồng quan điểm với bài viết của tác giả. Cháu đồng cảm một cách rất tự nhiên, ngay từ nhỏ chưa biết gì, như “trực giác”. Khi học Dawin ở trường, cháu đã tự có những suy nghĩ chống đối rồi, nhưng cháu chẳng dám thể hiện ra. Bài viết đã đưa ra một quan điểm “động trời” mà hầu như cả xã hội loài người bị che mắt bịt tai và lừa dối. Vì thán phục hiểu biết sâu rộng và uyên bác của tác giả bài viết nên cháu đã tìm tên tác giả. Khi đọc thấy tên Phạm Việt Hưng, cháu đã ngờ ngợ là chú rồi. Tiếp tục đi vào link gốc và thấy hình của chú, thấy sự đồ sộ trong trang cháu thật sửng sốt và tự trách sao giờ này cháu mới biết đến.

    Đây là bài đầu tiên hôm nay cháu được đọc, chắc cháu sẽ còn phải tốn rất nhiều thời gian để “lục lọi kho báu” này của chú. Cháu nói thật, thời buổi này, thiên hạ thường ưa thích những chuyện sâu-bít. Còn những trang kiến thức như của chú hiếm có khó tìm lắm ạ. Cháu xin cảm ơn chú đã cho cháu, cho cuộc đời những điều giá trị.

    Chúc chú và gia đình luôn mạnh khỏe.

    Nguyễn Thị Bích Vân
    vannguyen1971@gmai.com

    P/S : Cháu rất muốn hỏi thăm về gia đình và cuộc sống của chú nếu được chú cho phép.
    Cháu học khoá 1988, cùng khoá với Hiển cháu của chú ạ. Cháu ở Đội Cấn, nhưng năm 1994 cháu vào SG sau đó lập gia đình và ở SG đến giờ luôn.

    Thích

    • Chào Bích Vân,
      Chú rất mừng đã gặp lại cháu trên PVHg’s Home! Nhưng chú có quá nhiều học trò nên rất khó nhớ được tất cả. Trong lớp của cháu, chú chỉ còn nhớ 2 học trò, đó là Hiển cháu chú, và Lê Kiều Trang, hiện đang ở Canada. Chú đã định cư ở Úc từ lâu rồi, nên cơ hội gặp lại học trò cũ càng khó. Vậy chú có mấy đề nghị sau đây:
      1/Cháu gửi thư cho chú về địa chỉ bizet09@gmail.com
      2/Gửi cho chú một tấm hình để chú nhận ra cháu. Có thể gửi luôn một tấm hình về gia đình của cháu kèm theo lời giới thiệu.
      3/Chú vừa về Hà Nội. Nếu cháu có thể ra Hà Nội thì email cho chú biết để chú cháu mình gặp lại nhau. Mỗi lần ra, vào Việt Nam chú đều qua Saigon. Biết cháu ở trong SG thì một dịp nào đó chú sẽ làm vé transit SG nhưng lưu lại SG một chút để tới thăm cháu và gia đình.
      4/Giữ liên lạc email nhé. Nếu cháu có liên lạc với bạn nào cùng lớp ngày xưa thì cháu nối liên lạc nhé.
      Chúc cháu sức khỏe, bình an, may mắn.
      PVHg

      Thích

  8. Mừng cho Thầy được Chư Thiên ( Thần, Thánh….) ( nhiều bậc: đơncầu, hệ, ngânHà, thiênHà, … , cókhi mấyNgài ởdưới sôngbiển cũngnên) ban nhiều trựcgiác ( và đavăn nữa, có nhiều bài viết về khoahọc [ thiênvề kháiNiệm, logic,…] rất hay ).
    Hìnhnhư, trựcgiác “thuộc” hay “dínhlíu”,… với vôNiệm, vôNgôn, … ( bấtkhả[ tưNghì, thuyết,…] đốivới fầnNgười ). Nhưng cũng nhờ ngônngữ, … mà có [ ý, khái, …] niệm mới và nhờ líluận logic, … mới bảytỏ, liênkết,… nhữnggì “nhậnthấy”được qua trựcgiác để cho chínhmình và nhiềuNgười khác hiểubiết và làmtheo…. Nên trựcgiác ( “nốiliền, liênkết, tổhợp,… những … ) chưafải là thứ “duyNhất’ có giáTrị (mà nếukó thì trên fươngdiện, fạmvi nào riêngbiệt mà thôi )
    Và fânbiệt Tâm,Vật chỉđể chiếntranh,chiarẽ,… mà VũTrụ, “ThiênĐường”, … hòàbình, lạilà TâmVật NhấtNhư…
    Chúc Thầy và MọiNgười VuiKhỏe.

    Thích

  9. Chào chú.

    Xin cám ơn chú vì bài viết ạ.
    Trước khi đọc được bài viết này, cháu thường nghĩ trực giác là kết quả của việc tổng hợp và đưa ra kết quả của một phần cao siêu nào đó của bộ não,và thông tin đó được chúng ta tiếp nhận một cách bất ngờ nên sẽ có cảm giác “tôi tin là nó đúng, nhưng tôi không thể giải thích tại sao”. Cháu nghĩ trực giác cũng giống như biết được kết quả của bài toán nhưng không biết cách thức để giải nó. Nói đến đây cháu lại thấy trực giác giống cảm giác như được một người bạn chỉ bài lúc đang làm trắc nghiệm. Cháu chỉ xin được nói ra suy nghĩ của mình, do môi trường xung quanh cháu không có nhiều nơi để nói về những lĩnh vực như thế này. Mong chú thông cảm.

    Chúc chú nhiều sức khỏe ạ.

    Đã thích bởi 1 người

    • Ý kiến của cháu đã được biên tập một chút như cháu đã có thể thấy. Nếu cháu không đồng ý với sự biên tập nói trên thì cho chú biết, chú sẽ không đăng ý kiến của cháu. PVHg

      Thích

  10. Khi bác về Việt Nam nói chuyện ở khu vực TpHCM thì bác thông báo để cháu tham dự nhé.Cảm ơn bác nhiều

    Thích

  11. Gửi bác Hưng,
    Cháu đã nghe về Trực Giác qua các bài viết về tiến hóa và cũng đã hiểu một chút về nó. Hôm nay, đọc bài viết này, cháu lại hiểu rõ hơn và học được thêm rất nhiều điều. Thực sự là từ rất lâu cháu đã có trí tìm tòi, muốn hiểu về mọi thứ xung quanh, và không biết từ khi nào, cái Trực Giác nào đã mách bảo cháu phải làm như vậy. Cháu đọc vô số thứ, dần dần Trực Giác đã mách bảo cháu đọc một bài về Sự thật Thuyết tiến hóa, rồi cháu cứ thế mò mẫm và đã tìm ra được một kho tàng tri thức mà có lục tung cả Google lên cũng không có được cái thứ 2 ( chính là trang web này đó). Đọc từng bài viết của bác và xem cả những phần bình luận dưới bài, cháu đã khá hiểu về bác. Phải nói là cháu CÓ DUYÊN mới được biết về bác và trang mạng này của bác. Cháu được biết mọi sự thật bị che giấu, hiểu đời, hiểu người, rồi càng lúc càng hình thành cho mình một vũ trụ quan mà cái vũ trụ ấy nếu không dùng đến Trực Giác thì sẽ không thể đưa bản thân mình đạt tới cảnh giới được. Chân thành cảm ơn vì sự đóng góp của bác và chúc bác sức khỏe dồi dào. Cháu sẽ tiếp tục dùng hết Trực Giác của mình để thu thập những thông tin hữu ích và có ý nghĩa.

    Thích

    • Thank you Tiến Nam,
      Cháu ở đâu? Nếu ở Hà Nội thì bác sẽ mời cháu tới dự một hội thảo về Học thuyết Darwin sắp tới (Thứ 6 tuần sau). Bác sẽ trình bày bài tham luận chính, sau đó sẽ có thảo luận.
      PVHg

      Thích

      • Bác có thể cho cháu biết buổi hội thảo đó diễn ra ở đâu được không. Về sau, nếu có dịp nào đó để dự buổi hội thảo của bác thì cháu nhất định sẽ đến. Cháu cũng nghe nói Thuyết tiến hóa sẽ bị khai tử trong nửa đầu TK 21 này, tức là không còn bao lâu nữa, bác cháu mình sẽ cùng chờ. Đến khi đó, bác có thể mở một buổi hội thảo rồi mời cháu cùng đến dự. Bác thấy hay chứ? Cảm ơn bác Hưng

        Thích

  12. Chào anh(chú) Việt Hưng. Hôm nay đọc bài này mới biết anh (chú) Việt Hưng không phải ở Việt Nam. Lúc đầu tôi cứ tưởng ở Việt Nam lại có được Những người, những giáo viên như vậy !
    Xin tự giới thiệu : Tôi năm nay 40 tuổi, sống ở 1 tỉnh biên giới Miền Tây. Trình độ học vấn thì chỉ tốt nghiệp PTTH, Tin đức chúa Trời.
    Do trình độ thấp kém nên các từ chuyên môn trong bài viết tôi không hiểu nhiều cho lắm, nhưng trong tâm tôi có cách hiểu theo kiểu của mình về ý của tác giả. Tôi cảm nhận được cảm nhận của tác giả. Tôi luôn tìm tòi các thông tin khoa học qua internet có lẽ do mình yêu thích khoa học.
    Trong môi trường xã hội Việt Nam tôi thấy không có những kiến thức như vậy (trang của tác giả) có chăng cũng chỉ một khía cạnh nào đó, không đầy đủ để người ta tiếp thu đúng sự thật (về mọi mặt).
    khoảng gần 1 tháng nay tôi mới được biết đến trang (nơi) này, tôi rất vui và phấn khởi. Các kiến thức tôi tự tìm tòi trên internet cũng rất nhiều nhưng có thể do tự học hỏi không bài bản nên nó hơi…. lung tung, mơ hồ, cũng có thể nói không căn bản. nay nhờ có trang (nơi) này tôi có thể sắp xếp, hệ thống lại các kiến thức của mình.
    Mong rằng trang này sẽ được phổ biến đến nhiều người, soi sáng được trực giác của nhiều người hơn nữa.
    Cám ơn anh (chú) Việt Hưng ! Chúc anh (chú) sức khỏe, bình anh trong tay Chúa !

    Thích

    • Cám ơn anh Trần Vĩnh Kha,
      Anh gọi tôi bằng chú hay anh cũng được. Tôi không câu nệ lắm chuyện tuổi tác, bởi tôi biết có người tuổi chưa đến 20 mà có những suy nghĩ làm tôi giật mình. Ngược lại có những vị tuổi ngoài bẩy mươi mà vẫn “ngây thơ”. Điều đáng quý là ở sự CHÂN THÀNH, vf đặc biệt là ở ĐỨC TIN vào LẼ THIỆN, CÁI CAO CẢ, CÁI THIÊNG LIÊNG.
      Kiến thức cũng KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO HỌC VỊ, BẰNG CẤP. Nhiều có bằng cấp cao những không có phẩm chất trí thức. Người khao khát tìm tòi, ham hiểu biết như anh chính là người có tâm hồn trí thức.
      Cám ơn anh rất nhiều vì những chia sẻ. PVHg

      Đã thích bởi 1 người

  13. Chào chú,

    Trước tiên cháu rất cảm ơn vì bác đã có một bài viết hay về Trực Giác nói chung và các nhà khoa học, tác gia nổi tiếng nói riêng. Tuy nhiên, khi đọc bài viết của chú, cháu có 1 số thắc mắc, mong chú giải đáp cho cháu rõ thêm ạ.

    1. Về ba mục trình bày cảm nhận của chú dưới ánh sáng của Định lý Bất toàn của Kurt Gödel và Lý thuyết Thông tin:

    – Ở mục 2, chú nói “Ý thức có nhiều đặc điểm của thông tin” và “Ý thức có thể là một dạng siêu thông tin”, cháu ko rõ ý chú “siêu thông tin” nghĩa là gì? Đó có phải là “nhiều đặc điểm của thông tin” không? Vì theo cháu biết để được gọi là siêu nghĩa là nó siêu việt hơn tất cả những cái cùng loại khác? Theo cháu là một sự so sánh về chất chứ không phải về lượng. Nếu đó là so sánh về lượng, vậy bao nhiêu mới đủ để gọi là Ý thức? Và khi đó Ý thức có phải có tính duy vật không? Vì nó có tính lượng, chất.

    – Ở mục 3, dựa vào muc 1 và mục 2 chú nói ở trên, thông tin và ý thức đều là phi vật chất. Thông tin và vật chất đều có nguồn, vậy nguồn của nó là phi vật chất hay vật chất? Nếu đó là phi vật chất, vậy phi vật chất đó có nguồn không? Hơn nữa, chú nói “vì mọi thông tin đều có nguồn, nên ý thức cũng có nguồn của nó” và “nhiều thông tin có thể lý giải cho ý thức”, theo cháu thấy chú không thể dựa vào thông tin lý giải cho ý thức để đưa ra câu nói “vì mọi thông tin đều có nguồn, nên ý thức cũng có nguồn của nó”. Vì có thể thông tin và ý thức là hai khái niệm độc lập nhau nên không thể đưa ra kết luận nhân quả trên chỉ vì nó được áp dụng để lý giải cho nhau.

    2. Theo như bài chú viết, Trực Giác là quà tặng của Chúa hoặc tạo hóa, hoặc 1 đấng siêu nhiên nào đó.

    – Vậy nếu một người ko được nhận quà tặng đó, họ sẽ không có được thành tựu như nhưng người đã nhận được món quà này? Hoăc giả sử, tất cả mọi người đều có trực giác, vậy khi đó cần phải xem xét mức độ trực giác của mỗi người, những người có trực giác nhiều hơn thì sẽ thành công hơn. Vậy khi đó cần phải có 1 thước đó về mức độ trức giác? Nếu vậy khi đó, trực giác đã mang tính duy vật rồi không?

    – Trực giác có thể trải qua quá trình luyện tập được không? Nếu có thể vậy khi đạt được trực giác đó là do Chúa ban tặng hay do chính người đó ban tặng cho mình? Nếu không thể vậy rõ ràng con người khi sinh ra đã được lựa chọn có được món quà này hay không, và như vậy có nghĩa là câu nói mà cháu thường hay nghe “Thiên tài chỉ 1%, còn lại 99% là nỗ lực” có vẻ không còn đúng nữa và khi đã không có thì cũng không cần phải cố gắng để có làm gì?

    – Cuối cùng, có một câu hỏi cháu vẫn thường hay hỏi bạn bè của cháu là “Nếu trên đời này có Chúa, vậy ai đã tạo ra Chúa”?

    Xin chân thành cảm ơn chú.

    Đã thích bởi 2 người

    • Chào bạn Chauamtran !
      Vừa đọc chia sẽ của bạn xong, tôi đã nhìn thấy mình. Tôi muốn chia sẽ với bạn về cảm nhận của tôi trước khi tác giả trả lời bạn.
      Tôi rất đồng cảm với bạn về những thắc mắc trên, đặt biệt là thắc mắc sau cùng.
      Tôi năm nay 40 tuổi. Cách đây cũng lâu rồi,…. tôi không nhớ rõ lắm, từ khi tôi còn bé, do tôi sinh ra đã là người có đạo Công giáo, Ba tôi có đạo , mẹ tôi có đạo. Mặc nhiên tôi được học giáo lý, được biết rằng có 1 Thiên Chúa đã tạo nên vũ trụ, tạo nên loài người và hà hơi thở của mình tạo nên linh hồn chúng ta. Khi lớn lên 1 tí, được ba mẹ cho ăn học thêm 1 tí (mặc dù gia đình rất khó khăn) tôi bắt đầu có những câu hỏi của mình về Thiên Chúa, rất nhiều và rất nhiều….. đại khái như những câu hỏi của bạn. Trước tiên có lần về vấn đề có Chúa hay không tại sao chúa không hiện hữu cho ta thấy (tôi không nhớ rõ câu hỏi) ba tôi có nói với tôi :
      Ba tôi :Con có thấy mặt ông nội con chưa ? (ông nội tôi mất khi ba tôi còn rất bé),
      Tôi trả lời là : “dạ chưa”
      Ba tôi : Vậy con có tin là con có ông nội không (mặc dù chưa từng thấy)
      Tôi : …… Con hiểu rồi
      “Phúc cho những ai không thấy mà tin”
      Sau đó lớn thêm tí nữa, tiếp thu thêm 1 số kiến thức khoa học nữa tôi lại lung lay niềm tin đó (có thể do nền giáo dục của xã hội về học thuyết tiến hóa) tôi lại có những câu hỏi lớn hơn ví như câu hỏi sau cùng của bạn.
      cách nay vài tuần tôi mới vô tình biết được trang này và được đọc về các kiến thức của DNA trong đó có việc các nhà khoa học nói rằng thông tin trong DNA của con người là 1 thư viện chứa vài ngàn bộ sách, nó là 1 chương trình ==> phải có 1 nhà lập trình siêu việt.
      Chỉ cần bấy nhiều thôi tôi đã được chúa đánh thức hoàn toàn, Tôi hoàn toàn tin Chúa. Khi tin vào Ngài thì tôi tin những điều Ngài dạy trong đó có câu (tôi không nhớ rõ nguyên văn) Loài người không được tìm hiểu về Thiên Chúa bởi vì mãi mãi sẽ không tìm được.
      Ngày xưa ba tôi cũng nói vậy với tôi, tôi cho rằng ba mình quá …thụ động, nói chung là 1 cái gì đó tôi khó diễn tả. Tôi nghĩ là con người được Chúa ban cho trí thông minh là để suy nghĩ, tìm tòi,…..Nhưng ngày hôm nay, tôi đã cảm nhận được những gì ba tôi nói, có thể do khả năng của tôi không thể giải thích được với bạn nhưng tôi tin cảm nhận của tôi là đúng, có những cái ngoài khả năng của loài người.
      Trước tiên phải trả lời rằng : mình có thật sự tin là có ông nội mình không cái đã. Khi đó sẽ có câu trả lời cho vấn đề mình có nên thắc mắc câu hỏi “ai tạo ra ông nội mình ?” hay không.
      Đây chỉ là cách nghĩ của tôi muốn chia sẽ cùng bạn, còn Tác giả thì có kiến thức nhiều và rộng hơn tôi tin chắc là sẽ có cách trả lời tốt hơn dễ hiểu và thuyết phục hơn !
      Mến chào bạn !

      Đã thích bởi 1 người

      • Chào anh Kha, cảm ơn anh đã có những giải thích về câu hỏi cuối cùng của tôi mặc dù chưa thể giải thích được trọn vẹn thắc mắc này. Ở đây, tôi không nghĩ việc tranh cãi tôn giáo là một việc hay nên sẽ không bàn nhiều về vấn đề này. Tuy nhiên tôi chỉ muốn góp ý một chút là:
        – Tôi không có đề cập đến việc có thấy Chúa hay không, và ví dụ của anh đưa ra cũng không thật sự phù hợp với câu hỏi của tôi vì nếu tôi hỏi ngược lại anh: Anh đã không thấy ông nội của anh, vậy anh có biết ai đã sinh ra ông nội anh ko? Tôi nghĩ chắc anh biết, tuy nhiên ở đây tôi lại không biết ai đã sinh ra Chúa. Vì tôi đã đọc một số bài viết của tác giả và trong đó có 1 kết luận rằng “Những sinh vật sống phải được sinh ra từ các thực thể sống”. Nếu Chúa tồn tại vậy Chúa phải được sinh ra từ một ai đó.
        – Câu “Loài người không được tìm hiểu về Thiên Chúa bởi vì mãi mãi sẽ không tìm được.”, tôi đọc xong cảm thấy rất mông lung vì lý do mãi mãi sẽ không tìm được. Tôi không biết vì lý do nào lại nói là không tìm được, và nếu tôi áp dụng câu nói này cho tất cả những kiến thức cho tôi biết thì có lẽ tôi sẽ chẳng có hiểu biết gì cả. Hơn nữa trên thế giới sẽ không thể có những phát minh khoa học vĩ đại được.

        Cuối cùng xin cảm ơn anh đã trả lời thắc mắc của tôi.
        Thân chào anh!

        Đã thích bởi 1 người

      • Trả lời ban chauamtran
        1/ Về ý kiến “Ý thức có nhiều đặc điểm của thông tin”, “Ý thức có thể là một dạng siêu thông tin”.
        Cho đến nay không ai biết ý thức là cái gì. Nhưng mọi người đều thấy ý thức tồn tại. Nhờ có ý thức nên chúng ta mới có câu chuyện như đang nói với nhau. Trước đây tôi từng nghĩ ý thức là một dạng sóng. Nhưng rồi tôi lại từ bỏ ý nghĩ ấy, vì khi gọi nó là sóng thì đã hàm ý coi nó là một dạng vật chất rồi. Từ khi lý thuyết thông tin ra đời, với tiên đề cơ bản của nó rằng thông tin không phải vật chất (ai không hiểu điều đó thì không thể hiểu gì về lý thuyết thông tin, như Werner Weiner, cha đẻ cybernetics, nói), tôi bắt đầu nghĩ rằng ý thức là một dạng thông tin, vì nó có nhiều đặc điểm của thông tin, nhưng có thể là siêu thông tin, vì những thông tin khác mà loài người biết đều đã có thể số hóa được dưới dạng các dãy số gồm 2 chữ số 0 và 1, nhưng ý thức thì chưa thể, vì thế tôi bảo ý thức là một dạng siêu thông tin. Điều này CHƯA CÓ tài liệu nào nói. Đó là là ý kiến của tôi, PVHg.
        2/ Cháu hỏi: Thông tin và vật chất đều có nguồn, vậy nguồn của nó là phi vật chất hay vật chất? Nếu đó là phi vật chất, vậy phi vật chất đó có nguồn không?
        Giả sử tôi nói: phi vật chất đó có nguồn là X, chắc bạn sẽ hỏi tiếp X có nguồn không?
        Bạn tưởng hỏi như thế là bạn khôn, hóa ra bạn dại. Dại vì bạn chẳng biết gì về Định lý Bất toàn của Godel. Định lý này nói rằng nhận thức LÝ LẼ có giới hạn – lý lẽ không bao giờ trả lời được MẮT XÍCH ĐẦU TIÊN và CUỐI CÙNG của bất kỳ một hệ logic nào. Khi cháu lập nên một chuỗi câu hỏi và muốn tìm một LÝ LẼ trả lời chuỗi câu hỏi đó thì cháu đã tự đặt mình vào một tình thế BẤT KHẢ (impossible). Vì thế, ý tưởng muốn dùng LÝ LẼ để tìm câu trả lời cho cái đầu tiên và cái cuối cùng là ý tưởng của những người ngây thơ về triết học, tâm lý học, xã hội học và thần học. Với kiểu đặt câu hỏi của cháu như thế, cháu có thể giỏi khi giải một bài toán cụ thể, như toán thi đại học chẳng hạn, nhưng vẫn có thể dốt không biết toán học là gì cả, vì Định lý Bất toàn của Godel chỉ ra rằng ngay cả đến toán học, một LÝ LẼ BẬC NHẤT cũng không đầy đủ và mâu thuẫn. Không đầy đủ tức là không thể trả lời mọi câu hỏi của chính toán học, và mâu thuẫn tức là tồn tại những nghịch lý trong toán học mà không thể sửa chữa được. Kiểu đặt câu hỏi của cháu là kiểu đặt câu hỏi của những học trò hoặc thầy giáo có thể giỏi logic nhưng kém hiểu biết về triết học. Tư duy thuần túy toán học hẹp hơn tư duy triết học rất nhiều. Qua câu hỏi của cháu, bác thấy cháu nên tập tư duy phi toán học một chút, cháu sẽ thông minh hơn.
        3/ Cháu nói “Vì có thể thông tin và ý thức là hai khái niệm độc lập nhau nên không thể đưa ra kết luận nhân quả trên chỉ vì nó được áp dụng để lý giải cho nhau”.
        Cháu dựa trên cái gì mà dám nói thông tin và ý thức là hai khái niệm độc lập nhau”. Đó là nói liều. Trong con mắt của tôi, ý thức có nhiều đặc điểm của thông tin, và tất nhiên nó còn có nhiều đặc điểm kỳ lạ khác nữa mà ta không hiểu hết. Vì thế tôi mới gọi đó là siêu thông tin. Vì thế chú bác bỏ ý kiến 3 của cháu. Tuy nhiên, đây là chỗ vượt khỏi khoa học, vì khoa học là một gã i tờ khi giải thích ý thức. Vì thế bác nghĩ là chỗ này chúng ta nên trầm tư duy ngẫm thì tốt hơn là tranh luận, vì tranh luận về một cái mà khoa học còn ii tờ sẽ vô bổ, trừ phí ta thảo luận về nó dưới góc độ triết học hoặc thần học. Nhưng xem ra cháu không có triết học và thần học nên bác không muốn thảo luận tiếp.
        4/ Cháu nói một đoạn dài về trực giác, rồi hỏi: Vậy khi đó cần phải có 1 thước đo về mức độ trực giác? Nếu vậy khi đó, trực giác đã mang tính duy vật rồi không?
        Cháu đúng là nạn nhân của tư tưởng duy vật và duy khoa học, nên muốn cái gì cũng phải đo lường được. Thí dụ, bác có thể cảm thấy trực giác của cháu không tốt lắm, cháu bị tư duy logic lấn át trực giác, nhưng bác không thể đo được trị số trực giác của cháu là bao nhiêu. Ngay cả trí thông minh cũng vậy. Chỉ số IQ là chuyện nhảm nhí. Cháu có đọc Tam Quốc không? Nếu đọc, có nhớ đoạn Khổng Minh mắng bọn hủ nho vì đọc sách theo kiểu dò từng câu đến từng chữ không? Có nhớ Khổng Minh nói ta đây đọc sách cốt nắm lấy ý đại lược không? Nghĩa là học cái gì cũng phải nắm lấy cái ý, cái thần, cái tư tưởng cốt lõi của nó, thay vì chẻ sợi tóc làm tư để lý lẽ, lý luận logic cháu ơi. Logic chỉ là gã giúp việc cho trực giác mà thôi.
        5/ Trực giác có thể trải qua quá trình luyện tập được không? Có chứ, và đó là nhiệm vụ của cha mẹ, của nhà trường đấy.
        6/ Nếu có thể vậy khi đạt được trực giác đó là do Chúa ban tặng hay do chính người đó ban tặng cho mình? Cháu hỏi như thế chứng tỏ cháu chẳng hiểu Chúa là gì cả. Những người đã biết có Chúa không ai hỏi như cháu.
        7/ Nếu không thể vậy rõ ràng con người khi sinh ra đã được lựa chọn có được món quà này hay không? Câu hỏi này cháu phải tự học hỏi để tìm câu trả lời. Ý nghĩa của sự học chính là ở chỗ này đấy. Bác không trả lời cháu câu hỏi này vì bác biết có nói gì với cháu cũng vô ích, khi cháu tưởng là mấy cái lý lẽ logic là kẻ dẫn đường tới chân lý. Hãy quẳng logic vào sọt rác, hãy mở lòng ra, nói chuyện bằng sự tâm tình và cảm xúc, chứ không bằng lý luận, khi ấy mới mong hiểu được sự thật. Nhà Phật gọi là giác ngộ. Lý lẽ và logic không làm cho cháu giác ngộ được đâu cháu ơi.
        8/ “Thiên tài chỉ 1%, còn lại 99% là nỗ lực”, đúng! Nhưng thiên tài 99%, còn lại nỗ lực chỉ có 1% cũng đúng! Thiên tài 50%, nỗ lực 50% cũng đúng! Tất cả những câu nói này đều đúng, vì đều thừa nhận có thiên tài và có nỗ lực. Bác không thấy có trường hợp nào chỉ có thiên tài mà không có nỗ lực và ngược lại. Và bác không quan tâm tới con số 99% hay 1%, vì bác không tư duy theo kiểu đo lường máy móc, hoặc dò từng câu đếm từng chữ, hoặc logic lý lẽ thuần túy. Bác cảm sự thật nhiều hơn là lý sự. Đó là kinh nghiệm của bác.
        9/ “Nếu trên đời này có Chúa, vậy ai đã tạo ra Chúa”?
        Câu hỏi cuối cùng này lộ rõ mọi tư tưởng của cháu. Thực ra bác đã trả lời ở trên rồi. Nếu cháu chưa hiểu, hãy đọc thêm mấy câu chuyện sau đây, chép lại từ các phản hồi trên trang nhà của bác. Cố gắng học hỏi qua mấy câu chuyện này nhé:
        ● Độc giả Nghĩa viết ngày 29/03/2016:
        Hôm rồi e chở thằng con lớp 6 đi học về, sẵn dịp “phô diễn kiến thức” với nó:
        Cha: Con người, sự vật trên Trái Đất từ đâu mà có?
        Con: Từ không khí, vi khuẩn, … hợp nên mà thành (nghe hợp lý Thuyết Tiến Hóa quá)
        Cha: Vậy không khí, vi khuẩn từ đâu mà có? (hỏi cho nó bí mà)
        Con: Chúng đến từ hành tinh xa xôi (chắc là xem phim viễn tưởng nhiều)
        Cha: Vậy trước đó, chúng ở đâu ra mà có trên hành tinh đó? (quyết hỏi cho bí)
        Con: …. im lặng (bí thiệt rồi)
        Cha: Vậy phải có một Đấng Chúa Trời, Đấng Sáng Tạo ra những thứ đó
        Con: (phản pháo liền) Vậy ai tạo Đấng Chúa Trời?
        …. đến lượt Cha bí…
        ● Tác giả PVHg trả lời bạn Nghĩa ngày 29/03/2016:
        Vì Cha và Con đều không hiểu Đức Chúa Trời là gì cả. Đức Chúa Trời không nằm trong cái logic ngây thơ và ấu trĩ của con người. Nhưng trách Cha nhiều hơn, vì con trẻ ngây thơ ấu trĩ là điều tự nhiên. Người thông minh nhận ra Đức Chúa Trời bằng cảm giác và linh giác chứ không phải bằng lý trí, lý lẽ. Vì thế sự tin vào Đức Chúa Trời mới được gọi là ĐỨC TIN.
        Câu chuyện sau đây là một biến tấu trên câu chuyện của bạn:
        Con: Tại sao qua 2 điểm ta chỉ kẻ được một đường thằng?
        Cha: Đó là một Tiên đề. Đã là Tiên đề thì đừng hỏi tại sao.
        Con: Tiên đề là gì?
        Cha: Tiên đề là mệnh đề được thừa nhận. Ta tin mệnh đề ấy đúng.
        Con: Tại sao lại tin?
        Cha: Vì ta cảm thấy nó đúng.
        Con: Ô, thế hóa ra khoa học của cha cũng dựa trên niềm tin à?
        Cha: Tất nhiên rồi, phải có niềm tin ban đầu nào đó chứ.
        Con: Vậy tại sao cha lại phản đối những người vào tin Đức Chúa Trời?
        Cha: (bí…)
        Thế đây, lý lẽ bao giờ cũng bị giới hạn. Đừng bao giờ hy vọng tìm thấy chân lý đầu tiên và cuối cùng bằng lý lẽ, bạn nhé. Để tìm chân lý đầu tiên và cuối cùng, con người PHẢI HỌC LÀM NGƯỜI LỚN, TƯ DUY CẢM XÚC, TƯ DUY TRỰC GIÁC, TƯ DUY TRIẾT HỌC, TƯ DUY THẦN HỌC, TƯ DUY VƯỢT LÊN NHỮNG GÌ TẦM THƯỜNG NHƯ 2+3 =5. Vì thế Chúa Jesus mới nói PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN. PVHg
        ● Độc giả littlesparrow92 viết ngày 31/03/2016
        Cậu bé con này lém lỉnh thật đấy!:)
        Không ai tạo ra Đức Chúa Trời cả vì Đức Chúa Trời là “thứ” duy nhất vô tận, giống như một đường thẳng vậy. Ngoài Đức Chúa Trời ra thì tất cả những “thứ” còn lại (vật chất, vũ trụ, con người, kể cả thời gian) đều có điểm khởi đầu và kết thúc, như khái niệm đoạn thẳng vậy.
        Nếu ai theo Đạo thì có thể hiểu Đức Chúa Trời ở đây ý chỉ Đức Chúa Ba Ngôi (Đức Chúa Cha, Jesus và Đức Thánh Linh).
        Cơ mà giải thích thế này có vẻ hơi phức tạp cho “cậu bé” thì phải!

        Đã thích bởi 2 người

    • 1. Ý thức không phải vật chất. Cũng giống như Tư Tưởng, Tình Cảm, Lương Tâm của con người vậy, nó là phi vật chất. Dù ” thông tin” hay là ” siêu thông tin” gì thì nó đều có nguồn. Một sản phẩm tinh vi phải được ra đời từ một NGUYÊN NHÂN khôn ngoan hơn. Giống như chiếc computer đa năng, tuyệt vời, nó phải được làm ra bởi bộ óc thông minh của con người, chứ không thể ngẫu nhiên mà có hay được làm ra bởi một kẻ ngốc. Tương tự, chúng ta cũng không thể vừa thông minh, vừa xinh đẹp nhờ sự tiến hóa từ bọn vượn/khỉ ngu đần, hoang dã, đầy lông lá, suốt ngày chỉ ” khọt khẹt” đó được.

      2. Ai cũng có trực giác và có các khả năng tiềm ẩn. Chỉ là có biết cách khai thác hay không mà thôi. Trực giác không cần phải luyện tập như luyện võ công, chỉ cần cảm nhận, tiếp thu những thông tin về thế giới xung quanh, biết tự mình phân tích logic thì dần dần sẽ hình thành nên một VŨ TRỤ QUAN VÔ BIÊN với cái phương tiện thiết yếu chính là TRỰC GIÁC. Như Einstein đã nói:” Có những người không biết nhìn bằng con mắt và cảm nhận bằng trái tim”. Bởi vậy, có lẽ, do quá phụ thuộc vào vật chất, công nghệ… nên nhiều người đã đánh mất đi cái MÓN QUÀ của CHÚA ấy. Hiện nay, khoa học càng phát triển còn văn hóa xã hội càng băng hoại, đó là điều quá dễ hiểu. Thêm nữa, những người thầy hoặc cô giáo đáng lẽ ra có thể giúp học sinh học tập bằng cách cảm nhận và bằng thực tế, nhưng tiếc thay, hầu như không ai làm việc đó mà chỉ nhồi nhét vào đầu học sinh những lý thuyết suông, vậy đào đâu ra TRỰC GIÁC ?

      3. Một lý luận thông thường của người vô thần và người hoài nghi là nếu tất cả mọi thứ cần phải có nguyên nhân tạo ra, thì Thiên Chúa cũng phải cần một nguyên nhân tạo ra. Kết luận được rằng nếu Thiên Chúa cần một nguyên nhân tạo ra thì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa (và nếu Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa, thì tất nhiên không có Thiên Chúa). “Ai làm ra Thiên Chúa?”. Mọi người đều biết rằng không có gì không đến từ chỗ không có. Vì vậy, nếu Thiên Chúa là một điều gì đó, đằng sau Ngài ắt phải có một nguyên nhân tạo ra. Tuy nhiên, trả lời câu hỏi đó là vô ích, thậm chí vô nghĩa. Câu hỏi ấy giống như hỏi “Mùi của màu xanh như thế nào?”. Màu xanh không thuộc loại của những thứ có mùi, do đó câu hỏi chính nó bị thiếu sót. Trong cùng một cách, Thiên Chúa không thuộc loại những thứ được tạo ra hoặc có nguyên nhân tạo ra. Thiên Chúa là Đấng không hề được tạo ra và không thể sáng tạo ra Ngài- Thiên Chúa đơn giản là sự hiện hữu. Ngài là Đấng sáng tạo vũ trụ và mọi thứ trong đó, kể cả con người.

      Đã thích bởi 1 người

  14. Tình cờ gặp trang của anh .Đọc thấy nhiều đồng cảm. Tôi vốn học vật lý (tôt nghiệp 1971) và luôn nghi ngờ thuyết duy vật .Chỉ mãi tới năm 2000 mới tim hiểu đạo Phật (tôi chưa là phật tử) mới thấy Phật lý đi xa hơn vật lý rất nhiều dù với những khám phá mới nhất.. Những thực chứng của thiền định du nông cũng đủ giúp tôi thấy rõ điều này , thêm vào các cơ duyên chứng kiến các cuôc chuyện trò cùng vong hồn (và hiểu ngạn ngữ “dỗ như dỗ vong” ” chiều như chiều vong” ) của các bạn hữu đều trong giới trí thức giúp tôi nhiều tri thức hơn về tâm linh. Đọc 2 bài của anh thấy rất thích vì tri thức phong phú nên viết lại vài dòng cảm ơn và trình diên cũng như xin phép vào đọc. đtg

    Đã thích bởi 1 người

  15. Chào bác, cháu đã follow wordpress của bác từ lâu vì được mở rộng tầm mắt khi được đọc những article về bản chất của các lý thuyết khoa học kinh điển mà rất ít sách vở ở VN phân tích và bình luận.
    Có điều bài viết này sao khác so với trên daikynguyevn.com vậy, dù đã được sự cho phép đăng tải của bác: http://www.daikynguyenvn.com/khoa-hoc-cong-nghe/nha-toan-hoc-lon-nhat-the-ky-20-chu-nghia-duy-vat-la-sai-lam.html

    Thích

    • Cám ơn bạn Ha Nam,
      Bác đã xem bài theo link cháu dẫn. Chỉ có 1 thay đổi do ĐKN là chữ “Chúa” được thay bằng chữ “Thần”. Bác thông cảm với quan điểm của ĐKN về sự thay đổi này. Ngoài ra không có thay đổi nào khác. PVHg

      Thích

  16. Pingback: Albert Einstein: ‘Trực giác là thứ duy nhất thực sự có giá trị’ | Khoa học và Tu luyện

  17. Một bài viết rất hay, cháu cảm ơn chú Hưng.
    Thực ra ( cháu nghĩ ), tất cả các thiên tài đều chung bản chất như chú nói, Einstein, Leonardo Da Vinci hay đức Chúa, đức Phật. Cháu thì theo đạo Phật và hâm mộ ngài, vì những bậc tài kia, cuộc đời và sự nghiệp của họ cũng nói lên bản chất của cuộc sống, về khía cạnh mà chú nói. Nhưng cái duyên vẫn là họ đã mượn những khía cạnh nào đó để nói lên cái tổng thể, chỉ có đức Phật là dành cuộc đời để nói thẳng về vấn đề trực giác này.
    Nếu ai còn đang thắc mắc, mình có trực giác hay không, làm sao để có trực giác, thì hãy tìm hiểu về THIỀN. Tất cả những nhân vật đại tài ở trên, họ đều thiền, chỉ là dưới hình thức khác nhau thôi.
    Cám ơn chú và mọi người đã lắng nghe ý kiến.

    Đã thích bởi 2 người

    • Trả lời bạn Quốc Đạt
      Câu hỏi của cháu rất chân thành, nhưng không dễ trả lời. Chú chỉ dám nói kinh nghiệm của bản thân thôi:
      1/ Tin vào những gì mình cảm thấy. Chủ động tìm tài liệu để kiểm chứng những điều cảm thấy đó,
      2/ Lắng nghe và học hỏi từ những người mình thấy mến phục vì trí tuệ và đạo đức của họ.
      3/ Suy ngẫm ý kiến của Henri Bergson sau đây: “Hãy vứt hết những gì mà nền giáo dục và sách vở đã nhồi nhét vào đầu bạn và hãy tin ở lương tri có sẵn nơi bạn”.
      Thí dụ:
      Người ta bảo cá voi xuất thân từ động vật có vú có 4 chân đi trên cạn, nhưng rồi nó xuống biển mò thức ăn nhiều quá nên dần dần “tiến hóa”, chân ngắn dần lại biến thành vây,…
      Liệu một chuyện như thế có đáng tin không? Nhưng nó được các “nhà khoa học” tiến hóa viết thành sách và nhồi vào đầu mọi người đấy.
      Có rất nhiều thí dụ khác tương tự, cháu cứ quan sát và suy ngẫm thật kỹ, cháu sẽ phát hiện ra cái thật, cái giả. Lý thuyết sách vở chỉ dùng để kiểm chứng cái mà trực giác mách bảo thôi cháu à.
      PVHg

      Đã thích bởi 1 người

  18. Vâng, bộ não của Einstein, bộ não của người khám phá, các nhà khoa học nghiên cứu gì ở đó khi các hiệu ứng đã tắt! năng lượng không tự nhiên sinh ra và mất đi … phải chăng cần phải nghiên cứu cái bóng đèn đã ngắt điện để tìm hiểu làm sao nó sáng trong trại thái mãi mãi không thể làm cho nó sáng!

    Thích

  19. Thứ nhất, đoạn nói về trực giác không thì tương đối thuyết phục, nhưng ví dụ thì rất sai lầm.
    Theo cháu biết về thuyết tiến hóa, các loài vốn dù có di truyền nhưng vẫn có những sự biến dị nhỏ do nhiều điều kiện xung quanh tác động. Các biến dị nào giúp cho con vật đó có lợi thế cao hơn trong sinh tồn và duy trì nòi giống thì các biến dị đó cũng sẽ được di truyền cho đời sau. Cứ như thế qua một khoảng thời gian rất dài, từ một loài ban đầu mới trở thành một loài khác (ví dụ một loài có 100% bò sát(bs)/0%(lv) lông vũ, sau mấy ngàn năm thì thành 99%bs/1%lv, mấy ngàn năm nữa thành 98%bs/2%lv….cứ như thế cho đến khi thành 0%bs/100%lv, rồi loài lông vũ lại tiến hóa tiếp cũng theo quy trình như thế) việc một loài có sinh tồn được hay không là do các tính trạng của nó có thích nghi được với hoàn cảnh sống hay không, hoàn cảnh sống thì luôn thay đổi, nên tất nhiên không có chuyện di truyền được toàn vẹn, sẽ có biến dị, biến dị mang đặc điểm thích nghi cao sẽ sống sót và duy trì giống nòi.
    Thứ hai, bài viết chỉ nêu lên các trực giác đúng, có thành tựu, mà đã không đề cập tới những lúc trực giác sai lầm khi thiếu logic sẽ như thế nào? Hay cứ trực giác sai thì quy vào luôn thành “suy diễn” và “tưởng tượng”?Bác không nêu lên rõ ràng được sự khác nhau giữa các khái niệm ấy.
    Thứ ba, Phật giáo không khẳng đinh là không có thần linh, nhưng Phật giáo KHÔNG CÔNG NHẬN một vị thần nào hữu ngã, tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào bất kì vật gì khác.Thần linh trong quan điểm của Phật giáo vẫn là một loài hữu tình, nhờ tích đủ phước đức nên được làm thần với các phép thần thông, sống lâu và thường được hưởng nhiều phước báo.
    Thứ tư, Bác có vẻ đã quên mất rằng trực giác của một người có học vấn, tri thức sẽ rất khác biệt so với một người có trực giác mà không có tri thức. Einstein để có được thuyết tương đối ông cũng đã có hiểu biết rất sâu sắc về vật lý rồi, thiếu đi những kiến thức ban đầu ấy, làm sao ông suy luận ra được thuyết tương đối. Phật giáo cũng rất đề cao trực giác, nhưng vẫn có giáo lý và kinh sách, vẫn có pháp thiền để trợ duyên, nếu trực giác là có sẵn thì liệu có cần những thứ phiền phức ấy hay không? Đức Phật giác ngộ nhờ trực giác xong trước đấy ông cũng đã theo học nhiều thầy, thử qua nhiều phép tu, tích lũy vô vàn tri thức, chứ trực giác đâu tới từ hư vô.
    Thứ năm,Bài viết trên có xu hướng rơi vào quan điểm siêu hình, làm gì có chuyện thế giới phi vật chất không bị thế giới vật chất làm ảnh hưởng, giả sử Einstein bị bệnh hiểm nghèo về trí óc, liệu bác có chắc chắn được rằng trực giác của ông sẽ vẫn hoạt động trơn tru không?
    Kết luận, cháu đồng ý với bác là có tồn tại trực giác, trực giác là một dạng nhận thức phi ý thức( còn logic hoạt động trên nhận thức có ý thức), nhưng để nó được hoạt động thì vẫn phải có vật chất, vật chất đóng vai trò là nguyên vật liệu, là thứ cung cấp cho trực giác đối tượng để chiêm nghiệm, quan sát, cảm nhận. Thiếu đi vật chất, sẽ không có trực giác nào cả. Tiếp theo cháu cũng đồng ý không nhất thiết phải nhìn nhận duy vật và duy tâm như hai thứ đối lập nữa. Một trực giác, một cảm thụ chỉ xuất hiện khi đồng thời đối tượng cảm thụ và đối tượng được cảm thụ xuất hiện. Tâm(phi vật chất) và vật chất xuất hiện cùng lúc, nhờ có vật mà tâm mới được hình thành và cảm thụ nhưng cũng nhờ có tâm mà vật mới được nhận biết. Nếu không có tâm, vật chất chả qua là các bước sóng, là năng lượng thuần túy, chính nhờ sự tương tác giữa các dòng năng lượng đó mà tâm và vật được hình thành.

    Thích

    • Trả lời bạn Đoàn Quang Minh
      Cám ơn cháu về nhiệt tình thảo luận, nhưng đáng tiếc là ý kiến của cháu về Thuyết tiến hóa sai hoàn toàn về di truyền.
      Kiểu di truyền mà cháu mô tả chính là kiểu di truyền những biến đổi của sinh vật hình thành trong quá trình sinh sống thích nghi với môi trường, tức là những biến đổi phi bẩm sinh, hoặc “những đặc tính mới giành được trong cuộc sống”, tiếng Anh gọi là “acquired characteristic”.
      Đó là kiểu di truyền do Lamark nêu lên, rồi Darwin bệ nguyên xi vào học thuyết của mình. Kiểu di truyền đó ĐÃ bị chứng minh là hoàn toàn SAI, vì các định luật di truyền của Gregor Mendel chỉ ra rằng sự di truyền tuân thủ một cách chặt chẽ theo những quy luật toán học, và sinh vật chỉ thừa hưởng những đặc tính nằm trong hệ di truyền của cha và mẹ. Nói cách khác, những biến đổi phi bẩm sinh không di truyền được cho con cái, vì nó không làm thay đổi hệ di truyền của sinh vật.
      Đầu thế kỷ 20, khi các định luật di truyền của Mendel được tái khám phá, giới tiến hóa hoảng hốt, vì các định luật này tự động bác bỏ tư tưởng về di truyền của Darwin. Họ bèn bịa ra khái niệm đột biến dẫn tới thay đổi gene, và những thay đổi đó được tích lũy hàng tỷ đời dẫn tới biến đổi lớn là sự tiến hóa. Đó là cái gọi là Học thuyết Tân Darwin (Neo-Darwinism).
      Trong hơn một thế kỷ qua, giới tiến hóa đã làm hàng trăm thí nghiệm nhằm chứng minh đột biến gene dẫn tới thay đổi loài, nhưng tất cả đều thất bại thảm hại. Đến hôm nay, không có một thí nghiệm nào chứng tỏ đột biến dẫn tới thay đổi loài, mà ngược lại, chỉ thấy dẫn đến quái thai và sự chết.
      Toán học xác suất cũng tham gia vào vấn đề này và ĐÃ đi đến kết luận rằng sự tích lũy hàng tỷ đột biến dẫn tới loài mới là BẤT KHẢ (impossible).
      Tất cả những sự thật đó đã rõ đối với những người chịu khó nghiên cứu và có trực giác tốt. Chỉ có những người tin vào Neo-Darwnism như một tín điều, hoặc thiếu tài liệu, hoặc lười nghiên cứu thì mới tiếp tục nhắc lại những quan điểm lỗi thời của học thuyết Tân Darwin mà thôi.
      Học thuyết này có rất nhiều lý luận, nhưng toàn là giả thuyết, không có giả thuyết nào là sự thật cả. Kiểu di truyền mà cháu nói là tưởng tượng suy đoán chứ không phải là sự thật. Ông Darwin suy đoán như thế, và từ đó tưởng tượng ra cái gọi là tiến hóa, nhưng không hề có trên thực tế.
      Cháu có đợi thời gian hàng tỷ năm để chứng kiến đột biến dẫn tới tiến hóa được không? Chắc chắn là không? Cháu chỉ có thể “lý luận” về điều đó dựa trên niềm tin của cháu thôi. Nếu cháu có sự thật về điều này, cháu không cần phải thông báo cho trang mạng PVHg’s Home, mà hãy thông báo cho Ủy ban Giải Nobel Thụy Điển để nhận giải thưởng, cháu nhé.
      Bác nói vui vậy chứ bác biết là điều cháu nói thi sách giáo khoa tiến hóa đã nói như thế từ 100 năm nay rồi. Ý kiến của cháu không có gì mới, mà chỉ thể hiện là cháu đã ngấm những tín điều trong SGK về tiến hóa đến mức không thể sửa chữa được nữa rồi.
      Những ý kiến khác của cháu không cần tranh luận, vì bác không có thì giờ, bác chỉ có thể nói vắn tắt rằng kiến thức của cháu về thuyết tiến hóa chứng tỏ cháu còn rất non nớt về kiến thức. PVHg

      Thích

      • trong Đạo Đức Kinh có viết: “Quí dĩ thiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ.” Cháu có kém thì mới cần người giỏi hơn chỉ rõ chỗ sai lầm.
        Tất nhiên cháu không phải là một nhà nghiên cứu sinh vật để có thể biết tường tận về các cuộc tranh luận về thuyết tiến hóa, chỉ là đọc thêm qua một số bài viết của bác(mà thường tập trung vào lật tẩy bằng chứng giả mạo về thuyết tiến hóa và đoán xét mục đích khi người ta làm vậy), và bên phản biện thuyết tiến hóa(ítđông đảo nhất là những người thuộc công giáo), cháu cũng chẳng thấy nó thuyết phục hơn thuyết tiến hóa. Bằng chứng về thuyết tiến hóa đơn giản nhất là có thể nhìn qua sự thuần hóa loài chó nhà, rõ ràng đã có nhiều đặc điểm khác xa với tổ tiên hoang dã của chúng, cùng nhiều vật nuôi khác cũng có sự biến đổi kể từ khi con người thuần hóa chúng. Bản thân con người cũng tiến hóa và kháng được một số loại bệnh trước đây con người vẫn mắc phải. Còn bằng chứng về khả năng kháng thuốc của một số loại vi khuẩn virus thì sao? Bác có thể cho cháu biết rõ hơn về vấn đề này?
        Nhân tiện, các phần bình luận còn lại ở comment trước của cháu, bác có thể chỉ rõ nốt để cháu biết phần nào mình thiếu mà bổ sung, non nớt mới cần nâng đỡ bác ạ.

        Thích

      • Trả lời cháu Đoán Quang Minh,

        Việc thuần hóa loài vật mà cháu coi là một biểu lộ của sự tiến hóa thì chứng tỏ cháu không hiểu gì về tiến hóa cả. Đó là biến đổi TRONG LOÀI chứ không phải sự tiến hóa. Biến đổi từ loài này thành loài khác mới là TIẾN HÓA mà Darwin nói.
        Quả thật là chính Darwin đã NHẦM LẪN khi suy diễn sự biến đổi trong loài thành sự biến đổi loài này thành loài khác. Có sự biến đổi TRONG LOÀI, nhưng không có sự BIẾN ĐỔI LOÀI. Chuyện biến đổi loài hoàn toàn là TƯỞNG TƯỢNG. Ai tin vào sự tưởng tượng đó thì có nghĩa là người ấy bị đánh lừa.
        Bản thân Darwin cũng bị TỰ NHIÊN ĐÁNH LỪA.
        Giới tiến hóa gộp cả biến đổi trong loài với biến đổi loài trong một chữ tiến hóa, trong đó những biến đổi trong loài họ gọi là “vi tiến hóa” (micro-evolution), biến đổi loài họ gọi là “vĩ tiến hóa” (macro-evolution). Đó là trò chơi đánh lận con đen về từ ngữ. Thực tế tuyệt đối không có “vĩ tiến hóa”, còn cái gọi là vi tiến hóa không phải là tiến hóa, vì biến đổi trong loài không dẫn tới loài cao cấp hơn, trái với định nghĩa của chữ “tiến hóa” (evolution).
        Một lần nữa bác thấy cháu đúng là không hiểu gì về tiến hóa. Và như thế thì phải khiêm tốn nghiên cứu, học hỏi, thay vì tranh luận mất thì giờ. PVHg

        Thích

  20. Phần về Darwin có sai lầm thì người ta đã nói từ rất lâu rồi, và đó là lí do thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại ra đời. Về việc thuần hóa cháu chỉ lấy ví dụ cho vấn đề loài vật qua các đời có thể biến đổi dần thành loài khác, các loài đã được thuần hóa mới được vài chục ngàn năm, chưa đủ thời gian để trở thành loài mới.
    Còn về các mục khác trong bình luận của cháu cũng chưa thấy được bác giải đáp cho, cháu vẫn chưa kết luận thế nào là đúng thế nào là sai cả, cứ cho là cháu có một niềm tin về một vấn đề từ trước, xong niềm tin thì vẫn thay đổi bằng sự thuyết phục được thôi, khoa học đâu có như tín điều của tôn giáo.

    Thích

    • Cháu Đoàn Quang Minh thân mến
      1/ Ý thứ nhất cháu nói đúng: “Phần về Darwin có sai lầm thì người ta đã nói từ rất lâu rồi”. Vậy mà vẫn còn rất nhiều người không muốn tin điều đó đấy. Những người này vẫn tôn thờ Darwin đấy.
      2/ Ý thứ hai cháu nói không chính xác và tỏ ra chưa biết sự thật: “đó là lí do thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại ra đời.”. Phải nói chính xác và rõ ràng như sau: “Đó là lý do Thuyết Tân Darwin (Neo-Darwinism) ra đời để cứu nguy cho Thuyết Darwin, nhưng đáng tiếc Thuyết Tân Darwin cũng sai lầm nốt, vì nó bịa ra khái niệm đột biến gene dãn tới tiến hóa. Thực tế chỉ thấy đột biến gene dẫn tới bệnh hoạn, quái thái và cái chết mà thôi. Toán học xác suất cũng bác bỏ giả thuyết đột biến gene hàng trăm triệu, hàng tỷ lần… dẫn tới tiến hóa”.
      3/ Về những ý kiến khác của cháu, bác quá bận để có thể trả lời. Cháu thông cảm nhé.
      PVHg

      Thích

      • Đột biến gene dẫn đến quái thai và chết? Cháu thấy nó không thuyết phục, công nghệ biến đổi gene vẫn ngày càng phát triển đấy thôi, các giống được tạo ra nhờ biến đổi gene đâu có luôn luôn dẫn đến bệnh tật, quái thai và chết chóc.
        Thật đáng tiếc bác không thể trả lời các phần bình luận khác của cháu, hi vọng khi có thời gian bác có thể giải đáp các thắc mắc khác mà cháu nêu lên. Bể kiến thức là mênh mông, cái coi là đúng hôm nay ngày mai bị coi là sai là lẽ thường, mâu thuẫn xuất hiện khiến con người không thể ngạo mạn với những gì mình tin biết, nhờ đó chân lý mới hiện ra sáng rõ hơn sau mỗi lần có tranh luận.

        Thích

      • Cháu Đoàn Quang Minh thân mến,
        Ý kiến của cháu cho bác thấy cháu rất ít đọc. Thắc mắc của cháu về việc đột biến dẫn tới quái thai và sự chết chứng tỏ cháu không biết gì về sinh học cả. Hãy tìm hiểu các thí nghiệm bắn tia X vào hàng triệu thế hệ ruồi giấm để gây ra đột biến gene. Có thể tìm câu trả lời cho vấn đề này trong các bài Sinh Hóa trên PVHg’s Home. Nếu cháu không chịu nghiên cứu nghiêm túc mà cứ thắc mắc thì sẽ rất mất thì giờ. PVHg

        Thích

  21. Bạn Minh thân mến
    Bạn nói các giống được tạo ra nhờ biến đổi gene đâu có luôn luôn dẫn đến bệnh tật, quái thai và chết chóc, thì tức là bạn đã thừa nhận rằng nhờ có sự CAN THIỆP của con người nên mới như vậy. Nếu con người đã can thiệp tỉ mỉ, cẩn thận để lựa chọn gen ích lợi mà còn không phải luôn luôn tốt ( mà không biết có thực sự tốt thật hay không ). Vậy thì xác suất để tự nhiên mù quáng, vô mục đích khiến loài cũ thành loài mới mà không tiềm ẩn rủi ro là bao nhiêu ? Nếu một sinh vật đẻ ra một đứa con bị quái thai và bệnh tật thì nó sẽ chết, mà đã chết thì làm sao có thể tiếp tục di truyền để mà tiến hóa được ?

    Thích

  22. Bạn nói đúng, người có trực giác nhạy bén như Einstein thì đương nhiên sẽ có tri thức uyên thâm. Nhưng không có chuyện có trực giác tốt mà lại không có tri thức, bạn ạ. Nếu không nhờ trực giác mách bảo để tìm hiểu học hỏi, thì làm sao có thể lĩnh hội tri thức được ?
    Đức Phật nếu không nhờ trực giác mách bảo phải từ bỏ mọi sự để đi tìm chân lý giải thoát thì sao ngài có thể theo học nhiều thầy, thử qua nhiều phép tu, tích lũy vô vàn tri thức, dù ta chưa nói đến chuyện con đường mà ngài đi, chân lý mà ngài tìm là đúng hay sai. Và như bạn nói, ” trực giác ” vẫn có thể sai lầm, hay còn gọi là ” trực giác kém ”

    Giả sử Einstein bị bệnh hiểm nghèo về trí óc thì chắc chắn ý thức của ông sẽ không được như người bình thường vì ông đang ở trong con người xác thịt. Nhưng khi ông qua đời, linh hồn ông ra khỏi thể xác, về nơi yên nghỉ, thì liệu có còn bị ảnh hưởng bởi định luật vật lý trong thế giới vật chất nữa không.?

    Bạn viết: ” nếu không có tâm, vật chất chẳng qua là các bước sóng, là năng lượng thuần túy, chính nhờ sự tương tác giữa các dòng năng lượng đó mà tâm và vật được hình thành “.
    Điều này chứng tỏ bạn nói nhưng không hiểu mình nói gì.

    Tôi nghĩ như vậy có lẽ đã đủ giúp bạn hiểu rồi. Tốt nhất bạn hãy cố gắng đi tìm câu trả lời cho bản thân nếu bạn khao khát tìm kiếm sự thật. Hãy tự giúp mình trước rồi Trời sẽ giúp. Sau đó, tôi tin chắc bạn sẽ cảm nhận được thế nào là TRỰC GIÁC

    Thích

  23. Cháu cảm ơn bài viết này và những bài viết khác của bác Phạm Việt Hưng. Cháu chúc bác luôn mạnh khỏe và bình an.

    Thích

  24. Vẫn như mọi khi, thêm 1 bài viết tuyệt vời. Xin cám ơn tác giả.

    Nhân đọc bài này xin chia sẻ thêm 1 số thông tin mà tác giả nhận định trong bài. Tôi không phải là 1 nhà khoa học, là 1 người tu hành, tin vào Đấng Sáng Thế (tức là Trời), và có khả năng ngoại cảm cao. Các thông tin dưới đây là do Thầy tôi giảng lại, cũng là các trải nghiệm cá nhân của tôi.

    1. Về việc Đức Phật không phủ nhận Đấng Sáng Thế: Đây là 1 nhận định chính xác.

    Đức Phật khi còn tại thế không giảng như kinh sách bây giờ ghi lại. Thời của Ngài cách đây hơn 2.500 năm, chữ viết còn chưa có, những lời Ngài giảng đa phần đã thất truyền. Kinh sách bây giờ là do người đời sau thêm bớt vào, không còn đúng với lời Đức Phật giảng. Khi hỏi Đức Phật về vấn đề này (Đức Phật vẫn là 1 người Trời sống ở cõi vô hình), thì được biết như sau:

    Khi còn tại thế Ngài thường giảng cho các học trò về:

    – Tồn tại vũ trụ: là những thứ tồn tài trong vũ trụ, không phụ thuộc vào suy nghĩ hay sự hiểu biết của con người: v.d hành tinh, các hệ hành tinh, hệ thống sinh ra và quản lý vũ trụ v.v…

    – 2 cõi giới tồn tại song hành: cõi hữu hình và cõi vô hình, hay ta gọi là cỗi dương/trần, cõi âm

    – 2 loài người tồn tại song hành: người Trần, người Trời, hay còn gọi là người Dương, người Âm

    – Các luật của Trời

    – – Kiếp luân hồi và nghiệp

    – Đức Chân Thiện Nhẫn;

    – Ý nghĩa việc tu hành.

    – Và một số vấn đề khác.

    Như vậy, Đức Phật hiểu rất rõ về Tồn tại Vũ trụ và Trời (Đấng Sáng Thế).

    2. Về Thuyết Tiến Hóa của Darwin

    Khi mời Ngài Darwin về để hỏi về các công trình của Ngài khi còn tại thế, Ngài khẳng định như sau:

    Thuyết tiến hóa của Ngài là sai. Con người do Trời sinh ra. (Trời sinh ra cả người Trời và người Trần. Người Trần thực ra là 1 người Trời (hay gọi là linh hồn cũng được) sống trong 1 thân xác theo các kiếp luân hồi mà thôi). Nói loài người tiến hóa từ loài vượn là sai.

    Tuy nhiên, Ngài nói lý thuyết của Ngài có 1 điểm đúng là Quy luật về chọn lọc tự nhiên: giữ lại điểm tốt, mạnh, có ích, loại bỏ điểm yếu, bất lợi.

    (Bình luận của tôi: khẳng định này là chính xác, vì 1 trong các luật của Trời chính là Luật Chọn Lọc Tự Nhiên)

    Thích

  25. Hôm nay cháu đọc bài về Trực Giác này ạ.

    Cháu xin cám ơn Chú ạ.

    Cháu xin chúc Chú luôn tràn đầy năng lượng của yêu thương và sáng tạo mỗi ngày ạ…

    … (như là biểu hiện ra bên ngoài của “món quà thiêng liêng”… vốn uyên nguyên default luôn là “miễn khước từ”… mang tên Trực Giác Intuition, phải không ạ?)

    Thích

Bình luận về bài viết này