“Rosetta stone” of cosmology has been found / Đã tìm thấy “hòn đá thử vàng” của vũ trụ học

Gravitational Waves (0)A breaking news is shaking the world: Gravitational waves have been found! I am so happy to hear this news and immediately remember to an article of mine, published in Vietnam 15 years ago: “Gravitational waves – the touchstone of cosmology”, implying that gravitational waves are the key to reveal the secret of the universe. Now is the time to discuss on this once again in the light of new discovery.
Một tin tức đặc biệt đang làm chấn động thế giới: Đã tìm thấy sóng hấp dẫn! Tôi rất đỗi vui mừng khi nghe tin này và lập tức nhớ tới một bài báo của tôi đã đăng tại Việt Nam 15 năm trước: “Sóng hấp dẫn – hòn đá thử vàng của vũ trụ học”, ngụ ý rằng sóng hấp dẫn chính là chìa khóa để vén mở bí mật của vũ trụ. Nay là lúc nên thảo luận vấn đề này một lần nữa dưới ánh sáng của khám phá mới.

Vâng, đúng thế, bài báo của tôi, “Sóng hấp dẫn – Hòn đá thử vàng của vũ trụ học”, đã đăng trên tờ Lao Động ngày 22/02/2001, và đã được tập hợp trong một cuốn sách của tôi nhan đề: “Những câu chuyện khoa học hiện đại”, do NXB Trẻ xuất bản năm 2004. Toàn bộ cuốn sách đã được post lên trang PVHg’s Home. Để tìm bài báo đó trên mạng, xin click vào đây: Những câu chuyện khoa học hiện đại, Chương I – Vật lý

Đọc lại bài báo, tôi giật mình nhận ra rằng nó vẫn hoàn toàn mới, đến nỗi có thể xem như một dự báo của sự kiện khám phá sóng hấp dẫn vừa được loan báo. Nội dung của bài báo tuy ngắn gọn, nhưng chứa đựng những khái niệm cơ bản của sóng hấp dẫn và nhấn mạnh ý nghĩa đặc biệt quan trọng của sóng hấp dẫn đối với khoa học hiện đại. Đó là những hiểu biết cần thiết để nắm bắt thông tin mới về sóng hấp dẫn. Vì thế, tôi xin công bố lại nguyên văn bài báo đó, như một cơ sở để nắm bắt thông tin mới, đồng thời nêu lên những bình luận và phân tích bổ sung dưới sánh sáng của những sự kiện đang làm cộng đồng khoa học thế giới xúc động.

“Sóng hấp dẫn – Hòn đá thử vàng của vũ trụ học”

Trải qua một thời gian dài nghiên cứu nguồn gốc vũ trụ nhưng đến nay các nhà vũ trụ học vẫn chưa có cách nào kiểm chứng được vũ trụ lúc mới ra đời để thẩm định giá trị lý thuyết của họ. Tuy nhiên trong những năm gần đây các nhà nghiên cứu đã đưa ra một phương pháp cho phép quan sát vũ trụ đúng vào thời điểm ngay sau Big Bang. Phương pháp này đòi hỏi phải tìm được dấu vết của sóng hấp dẫn trong nền vi sóng vũ trụ – nền bức xạ lạnh đã thấm vào vũ trụ trong suốt gần 15 tỷ năm qua.

Đó là lời mở đầu của Robert Candwell và Marc Kamionkowski trong bài “Echoes from the Big Bang” (Tiếng Vọng từ Big Bang) trên Scientific American số ra Tháng 01 năm 2001.

Sóng hấp dẫn là gì? Tính chất của nó ra sao? Tại sao lại dùng nó để kiểm chứng Big Bang?

Ngay từ năm 1918, Albert Einstein đã tiên đoán sự tồn tại của sóng hấp dẫn (gravitational waves) như là hệ quả tất yếu của Thuyết Tương Đối Tổng Quát của ông. Theo lý thuyết này, bất kỳ một hệ thống vật lý nào chứa đựng những chuyển động nội tại phi đối xứng cầu sẽ tạo ra sóng hấp dẫn. Mặc dù sóng hấp dẫn chưa bao giờ được phát hiện trực tiếp, nhưng những quan sát thiên văn đã xác nhận rằng hai vật thể có mật độ tập trung vật chất cực lớn trong vũ trụ như một cặp sao neutron hoặc hai hốc đen nếu chuyển động cuốn vào nhau (spiral toward each other) thì sẽ có thể sản sinh ra sóng hấp dẫn.

_88168345_gravitacijski-valoviHình bên: hai vật thể có mật độ tập trung vật chất cực lớn trong vũ trụ như một cặp sao neutron hoặc hai hốc đen nếu chuyển động cuốn vào nhau thì sẽ có thể sản sinh ra sóng hấp dẫn (ảnh BBC News)

Nếu sóng điện từ (tia X, sóng radio, ánh sáng) chuyển dời những xáo động (disturbances) trong trường điện từ thì tương tự như vậy sóng hấp dẫn chuyển dời những xáo động trong trường hấp dẫn. Và cũng giống như sóng điện từ, sóng hấp dẫn có thể chuyển tải thông tin và năng lượng từ các nguồn phát ra chúng.

Tuy nhiên sóng hấp dẫn có thể đi xuyên qua những loại vật chất có khả năng thẩm thấu mọi loại bức xạ điện từ. Nếu tia X cho phép các bác sĩ nhìn được xuyên qua những vật liệu mà ánh sáng không thể đi qua thì sóng hấp dẫn cho phép các nhà nghiên cứu nhìn thấy những hiện tượng vật lý thiên thể mà không thể có cách nào khác nhìn thấy.

Theo lý thuyết Big Bang, ngay sau vụ nổ lớn vũ trụ bị dãn nở đột ngột. Thời kỳ dãn nở đột ngột diễn ra trong khoảnh khắc cực ngắn từ lúc 10 mũ (-38) của 1 giây đến lúc 10 mũ (-36) của 1 giây kể từ lúc bắt đầu của Big Bang. Trong khoảnh khắc này, các quá trình lượng tử sẽ sản sinh ra sóng hấp dẫn. Các sóng này sẽ lan truyền xuyên qua một thể vật chất đặc biệt lấp đầy vũ trụ ngay từ buổi ban đầu gọi là plasma – một “thùng cháo” vũ trụ đặc quánh, nóng bỏng tràn ngập các hạt cơ bản.

Vũ trụ plasma này tồn tại suốt trong 500.000 năm đầu tiên và cản trở không để cho các bức xạ điện từ lọt qua, bởi lẽ bất kỳ hạt photon nào được phát đi đều bị chuyển động tán loạn ngay lập tức trong cái “thùng cháo” đó. Vì thế ngày nay không thể nhận được bất kỳ tín hiệu điện từ nào xẩy ra từ Big Bang. Nói cách khác, không thể trông cậy vào bức xạ điện từ để kiểm chứng Big Bang. Trong khi đó, sóng hấp dẫn sinh ra từ quá trình dãn nở đột ngột vẫn có thể lan truyền xuyên qua plasma để “vang vọng” mãi đến tận 15 tỷ năm sau, tức là cho đến tận ngày nay để làm nhân chứng cho lịch sử của vũ trụ.

Candwell và Kamionkowski viết: “Bởi vì bức xạ hấp dẫn cung cấp một bức ảnh chớp nhoáng của vũ trụ vào thời điểm ban đầu nên nó đã trở thành hòn đá thử vàng (Rosetta stone) của vũ trụ học”.

Nhắm mục tiêu tìm kiếm “hòn đá thử vàng ấy”, trong năm nay, 2001, NASA sẽ phóng lên không gian một con tầu mang tên MAP (Microwave Anisotropy Probe) để lập một bản đồ vi sóng vũ trụ cho toàn bộ bầu trời. Đến năm 2007, Cơ quan không gian Âu châu sẽ phóng lên không gian con tầu mang tên nhà bác học lượng tử Max Planck, cũng với mục tiêu tương tự. Các nhà vũ trụ học hy vọng với những cố gắng phi thường này, mối băn khoăn từ ngàn đời nay “Vũ trụ từ đâu mà ra ?” sẽ được trả lời dứt khoát trong thế kỷ của chúng ta.

Đó là những gì tôi đã trình bầy từ 2001. Sau đây là câu chuyện của 2016.

Đã tìm thấy hòn đá thử vàng!

Trong mấy ngày vừa qua, các nhà khoa học Mỹ loan báo lần đầu tiên họ đã có dịp quan sát trực tiếp một hiện tượng thiên văn vũ trụ chưa từng thấy, mặc dù đã chờ đợi 98 năm nay:

Gravitational waves (1)Hình bên: Hai hốc đen cuốn vào nhau (ảnh của The Economist)

Hai hốc đen – hai thiên thể khổng lồ quỷ quái – quay vòng quanh nhau trong không gian. Một hốc đen có khối lượng bằng khoảng 35 lần Mặt Trời của chúng ta, hốc đen kia bằng khoảng 30 lần. Trước khi chúng hợp nhất làm một, chúng quay xung quanh nhau hàng chục lần trong 1 giây. Sau đó hợp lại làm một.

Khi hợp nhất làm một, chúng phát ra một năng lượng dưới dạng sóng hấp dẫn, và khối lượng bị mất đi tương đương với 3 lần khối lượng Mặt Trời. Nói rõ hơn, khi hai hốc đen hợp nhất làm một, tổng khối lượng của chúng bị mất đi một lượng bằng 3 lần Mặt Trời, và khối lượng bị mất này đã biến thành năng lượng dưới dạng sóng hấp dẫn. Sự biến hóa khối lượng thành năng lượng diễn ra đúng theo công thức bất hủ E = mc2 của Einstein, trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng.

Xem video sau đây để hình dung sự kiện mô tả ở trên cụ thể hơn:

Hốc đen hợp nhất khổng lồ này không chỉ phát ra năng lượng mà còn làm cong không thời gian xung quanh nó, nhờ đó các nhà khoa học đã ghi nhận được hiện tượng lạ lùng mà họ chờ đợi gần một trăm năm nay, mặc dù nó xẩy ra ở một nơi trong vũ trụ cách chúng ta khoảng 1,3 tỷ năm ánh sáng.

_88226627_signalHình bên: Ghi nhận dấu hiệu sóng hấp dẫn của 2 đài quan sát thuộc LIGO (ảnh BBC News)

Hai Đài quan sát sóng hấp dẫn độc lập với nhau, cách nhau 3000km cùng thuộc cơ quan LIGO (Laser Interferometer Gravitational-Wave Observatories) gần như đồng thời ghi nhận được hiện tượng này. Đó là: Đài quan sát tại Livingston thuộc tiểu bang Louisiana và Đài quan sát The Hanford, thuộc tiểu bang Washington. Đài quan sát Livingstone tóm bắt được tín hiệu sớm hơn The Hanford chỉ 7/1000 giây!

Tóm lại, kịch bản diễn ra đúng như dự kiến của Einstein. BBC News bình luận: “Một lần nữa thiên tài của Einstein lại được xác nhận”.

Ý nghĩa của khám phá mới

Cách đây 4 năm, 2012, thế giới cũng từng trải qua một cơn địa chấn khoa học khi CERN (Trung tâm nghiên cứu hạtnhân Âu Châu) loan tin đã tìm thấy Hạt Higgs, một loại hạt cơ bản do Peter Higgs dự đoán sự tồn tại của nó từ năm 1964, và Higgs đã đoạt Giải Nobel vật lý năm đó. Giới khoa học bị chấn động vì Hạt Higgs đóng vai trò vô cùng quan trọng trong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt cơ bản đến nỗi nó được mệnh danh là “Hạt của Chúa”. Nếu nó thực sự không tồn tại thì Mô hình Chuẩn có nguy cơ sụp đổ. Nhưng nó tồn tại!

Lần này, nếu cộng đồng khoa học thế giới bị chấn động với tin tức tìm thấy sóng hấp dẫn, thì ắt sóng hấp dẫn phải đóng một vai trò quan trọng như thế nào đối với vật lý hiện đại. Xin thưa, nếu sóng hấp dẫn không tồn tại thì lý thuyết của Einstein có nguy cơ sụp đổ, có nghĩa là vật lý học sụp đổ. Nhưng sóng hấp dẫn tồn tại!

Câu chuyện về sóng hấp dẫn, tất nhiên, đòi hỏi những hiểu biết khoa học phức tạp. Nhưng tôi thích cách tiếp cận đơn giản để sao cho mọi người có thể hiểu. Với những người không chuyên về vật lý, đôi khi họ bị rối mù với các khái niệm về vật chất, lực, trường, sóng, năng lượng. Tùy theo ngữ cảnh của câu chuyện, những khái niệm này có thể được sử dụng một cách chặt chẽ, chính xác, nghiêm ngặt, hoặc lỏng lẻo dễ dãi hơn một chút, nếu không sợ bị hiểu lầm.

Nói về hấp dẫn, thì công lao đầu tiên thuộc về Isaac Newton, khi ông chỉ ra rằng tồn tại lực hấp dẫn – tương tác giữa những vật chất có khối lượng (chuyện quả táo rơi), và không những thế, ông còn tính được chính xác những lực đó.

Nhưng phải đợi đến Michael Faraday thì khái niệm trường (field) mới hình thành, bắt đầu từ trường điện từ (electro-magnetic field). Không ai nhìn thấy trường điện từ, nhưng Faraday “cảm nhận” được nó thông qua những biểu hiện gián tiếp. Hình ảnh mạt sắt phân bố theo những đường cong (đường sức) của từ trường giúp Faraday hình dung ra từ trường. Vậy nếu có lực điện từ thì phải có trường điện từ. Lực chẳng qua là biểu lộ của trường tại một điểm. Trường là không gian vật chất truyền lực tương ứng. Trường điện từ là không gian vật chất truyền lực điện từ. Không gian vật chất này lấp đầy những hạt cơ bản chuyên trách chịu trách nhiệm làm công việc truyền lực đó.

Vậy nếu tồn tại lực hấp dẫn thì phải có trường hấp dẫn. Dễ thấy rằng trường hấp dẫn lấp đầy vũ trụ, vì vật chất có mặt ở khắp nơi. Ở đâu có vật chất ở đó có vũ tru, và ngược lại, vũ trụ là tập hợp của thế giới vật chất. Tất nhiên, vũ trụ mà ta đang nói đến là vũ trụ vật lý, nơi công thức E = mc2 thống trị. Nhưng Einstein không dừng lại ở đó. Ông đẩy câu chuyện đi xa hơn.

Cuối thế kỷ 19, khoa học đã khám phá ra sóng điện từ: một dao động điện từ phát ra sóng điện từ. Sóng vô tuyến điện giúp ta nghe radio, xem truyền hình, phát ra từ những dao động điện trong các khung dây. Nói một cách tổng quát, những xáo trộn điện từ tạo ra sóng điện từ. Tương tự, những xáo trộn của vật chất có khối lượng sẽ tạo ra sóng hấp dẫn. Đó là tiên đoán thiên tài của Albert Einstein.

Nên nhớ rằng từ những phương trình của thuyết tương đối tổng quát, các nhà khoa học đã rút ra rất nhiều hệ quả kỳ lạ, và những hệ quả đó đều lần lượt được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Hệ quả về sự tồn tại của sóng hấp dẫn là hệ quả cuối cùng vừa được kiểm chứng.

Nếu được hỏi làm sao mà bộ óc của Einstein, cũng chỉ nặng bằng bộ óc của chúng ta, lại có thể có những suy nghĩ lạ lùng đến như thế, tôi sẽ trả lời: đó là trực giác sẵn có trong đáy sâu tâm khảm của ông – cái trực giác làm cho ông cảm nhận được một cách sâu sắc rằng bản chất của tất cả các loại lực là một. Vật lý đã biết 4 loại lực: hấp dẫn, điện từ, hạt nhân yếu, hạt nhân mạnh. Với Einstein, 4 loại lực ấy là Một, và Cái Một ấy được gọi là Siêu Lực (superforce). Đó là lý do để ông đề xuất Lý thuyết Trường Thống nhất, tiền thân của Lý thuyết về mọi thứ sau này (TOE, Theory of Everything).

Trở lại với việc Einstein tiên đoán sự tồn tại của sóng hấp dẫn, ông biết rằng lực hấp dẫn là lực vô cùng nhỏ, yếu nhất trong 4 loại lực đã biết, nên sóng hấp dẫn sẽ rất khó phát hiện. Tuy nhiên, lực hấp dẫn tỷ lệ thuận với khối lượng, nên những thiên thể vô cùng lớn sẽ tạo ra những lực hấp dẫn đáng kể, và do đó chỉ những xáo trộn của những vật thể vô cùng lớn mới có thể tạo ra những sóng hấp dẫn đủ lớn để khoa học có thể nắm bắt được.

Big Bang, vụ nổ lớn của vũ trụ từ thủa sơ sinh, là một xáo trộn vĩ đại, ắt phải sản sinh ra các loại sóng vật chất: sóng điện từ, sóng hấp dẫn – những di tích lan truyền trong vũ trụ, mang theo thông tin của vũ trụ trong quá trình sinh trưởng, “tấm ảnh” tái hiện vũ trụ trong buổi sơ sinh. Nhưng, như đã phân tích trong bài báo “Sóng hấp dẫn – hòn đá thử vàng của vũ trụ học”, khoa học không thể trông mong gì ở sóng điện từ, vì nó bị tán loạn trong “nồi cháo plasma” của vũ trụ trong khoảng 500.000 năm sau buổi sơ sinh. Trong khi đó, sóng hấp dẫn, tuy yếu hơn, nhưng lại có khả năng xuyên thấu mọi vật chất mà sóng điện từ không thể lọt qua, và chúng sẽ có thể đến với chúng ta ngay nay. Và quả nhiên, chúng đã đến!

Không thể nói sao cho hết sự kỳ diệu này!

Newton ngày xưa được nhà thơ Alexander Pope ngợi ca rằng “Chúa phán: Newton hãy ra đời! Và thế là khắp thế gian bừng sáng”. Liệu lời ca ngợi đó có thể dành cho Einstein không?

Tôi nghĩ, công trình khám phá ra sóng hấp dẫn chắc chắn sẽ đoạt Giải Nobel vật lý năm 2016. Nhưng người đoạt giải tất nhiên sẽ không phải là Einstein, người dự đoán sự tồn tại của nó, mà sẽ là những người có công xác nhận sự tồn tại của nó trong thực tế. Đó là ai? Hãy chờ xem. Nhưng nếu phải có một lời ngợi ca duy nhất trong trường hợp này, tôi muốn ca ngợi vật lý học nói chung, và đặc biệt, ca ngợi những phương trình của Einstein.

Thật kinh ngạc khi biết rằng trong phát hiện mới nhất này người ta thấy tất cả các số liệu ghi nhận được đều phù hợp với các phương trình của Einstein đến mức hoàn hảo! Sự kinh ngạc về tính chính xác trong những tiên đoán của Einstein đã xẩy ra nhiều lần, nhưng lần này sự kinh ngạc quá lớn, vì sự chờ đợi đã quá lâu, và sự kiện hai hốc đen cuốn vào nhau để phát ra sóng hấp dẫn quả thật là “trăm năm có một”. Các nhà khoa học tìm kiếm sóng hấp dẫn giống như những người câu cá trên một cái hồ không có cá, sau 98 năm mới có một con cá xuất hiện…

Trong giới vật lý, người ta thường truyền tụng nhau một “định lý” rằng các phương trình của Einstein thông minh hơn chính tác giả của chúng, bởi từ những phương trình đó, các nhà vật lý đã tìm thấy những hệ quả mà chính Einstein cũng phải ngạc nhiên. Lý thuyết Big Bang là một. Bình luận việc khám phá ra sóng hấp dẫn lần này, nhà khoa học Bernie Schutz tại Đại học Cardiff nói:

“Mặc dù các phương trình của Einstein nổi tiếng là phức tạp, nhưng chúng là những phương trình đơn giản nhất mà ông có thể viết ra,… Thật là phi thường khi tự nhiên không bổ sung thêm điều gì phức tạp hơn nữa”. (Although Einstein’s equations are famously complicated, they are the simplest equations he could have come up with,… It is remarkable that nature didn’t add in even more complexity).

Nhưng tôi còn nhìn thấy một hệ quả sâu xa hơn nữa. Đó là sự củng cố lý thuyết Big Bang và điều này liên quan tới triết học, tới vũ trụ quan, ủng hộ quan điểm của Thuyết Sáng tạo.

Sóng hấp dẫn – Big Bang – Thuyết Sáng tạo

Rốt cuộc, sóng hấp dẫn là một sự thật, không còn ai nghi ngờ nữa. Giải mã những thông tin của sóng hấp dẫn, khoa học sẽ tạo dựng được bức tranh hình thành vũ trụ. Mặc dù việc này vẫn đang còn ở phía trước, nhưng các nhà khoa học đã vững tin rằng họ đang đi đúng đường. Lý thuyết Big Bang đáng được tin cậy hơn, vì càng ngày càng có thêm nhiều bằng chứng xác nhận nó. Sóng hấp dẫn vừa tìm được mặc dù phát ra từ sự hợp nhất của hai hốc đen, nhưng nó là bài học, là tấm gương để các nhà vũ trụ học tiếp tục tìm kiếm sóng hấp dẫn phát ra từ chính Big Bang. Một ngày nào đó có thể không xa, chúng ta có thể lại bị chấn động bởi một phát hiện tương tự như hôm nay, rằng đã bắt được tín hiệu sóng hấp dẫn từ Big Bang. Dù chưa đến ngày đó, logic và cơ sở khoa học của lý thuyết Big Bang đến nay vẫn vững chắc đến mức được hầu như tất cả các nhà khoa học ủng hộ, bao gồm cả những nhà khoa học hữu thần lẫn vô thần.

Gravitational waves (2)Hình bên: GS David Reitze, giám đốc điều hành LIGO: “Thưa quý bà, quý ông, chúng tôi đã phát hiện thấy sóng hấp dẫn (ảnh BBC News)

Đại biểu xuất sắc của các nhà khoa học hữu thần – những nhà khoa học tin vào Thuyết Sáng tạo – chẳng phải ai khác Albert Einstein. Ông không tin vào Chúa của Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo, nhưng tin vào Chúa của vũ trụ – Đấng Sáng tạo, tác giả của các định luật vũ trụ. Ông coi niềm tin đó là Đạo Vũ trụ. Và ông viết rất rõ ràng về điều này trong cuốn “Thế giới như tôi thấy”: “Đạo của anh ta là sự kinh ngạc ngất ngây trước sự hài hòa của tính quy luật tự nhiên, nơi tỏa rạng một lý tính ưu việt, đến nỗi đối diện với ánh hào quang ấy, tất cả những gì đáng kể trong tư tưởng và sự sắp đặt của con người chỉ là một ánh hồi quang hoàn toàn hư ảo mà thôi” (NXB Tri Thức 2004, trang 38).

Trong một trường hợp khác, ông nhắc lại ý tưởng trên rõ ràng hơn: “Mọi người theo đuổi nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc đều bị thuyết phục rằng có một LINH HỒN biểu lộ trong các định luật của vũ trụ – một linh hồn cao siêu hơn rất nhiều so với linh hồn của con người, và khi đối diện với linh hồn cao siêu ấy, con người với khả năng bé nhỏ của mình phải cảm thấy mình thấp hèn” [1].

Việc xác nhận sự tồn tại sóng hấp dẫn một lần nữa cho thấy Einstein là con người siêu việt, và cảm xúc của ông về Đạo Vũ trụ là tình cảm dựa trên lý tính khoa học, trái ngược 100% với những người như Charles Darwin hoặc Stephen Hawking. Đạo Vũ trụ của Einstein không nghi ngờ gì nữa rằng nó ủng hộ Thuyết Sáng tạo, lý thuyết cho rằng Đấng Sáng tạo là tác giả của vũ trụ và sự sống.

Lý thuyết Big Bang, vốn đã được hầu hết các nhà vật lý ủng hộ, vì nó là hệ quả trực tiếp của các phương trình của Einstein và được các bằng chứng thực tế ủng hộ, nay lại càng được củng cố thêm. Nhưng lý thuyết Big Bang được củng cố bao nhiêu thì những học thuyết vô thần càng khó ăn khó nói bấy nhiêu. Tình trạng này làm tôi nhớ đến một hình ảnh thú vị mà nhà thiên văn Robert Jastrow của NASA đã mô tả: “Đối với nhà khoa học sống bằng niềm tin vào lý lẽ (thuần túy), câu chuyện kết thúc giống như một giấc mơ buồn. Anh ta đã leo lên ngọn núi vô minh; sắp chinh phục được đỉnh cao nhất; nhưng khi trèo lên tảng đá cuối cùng, anh ta lại được chào đón bởi một nhóm các nhà thần học đã ngồi sẵn ở đó từ hàng thế kỷ nay” [2]…

Và xin có một cái kết hơi “lạc đề”:  Nếu lấy vật lý học làm mô hình kiểu mẫu của khoa học, thì thuyết tiến hóa của Darwin không đáng gọi là một khoa học. Tại sao? Vì khoa học phải đạt được 2 tiêu chí cơ bản: 1/ Logic chặt chẽ; 2/ Được thử thách và kiểm chứng bởi thực nghiệm.

Lý thuyết của Einstein là một mô hình kiểu mẫu của vật lý hoc vì: 1/ Logic chặt chẽ, được toán học hỗ trợ một cách sắc bén, thậm chí nhờ toán học có thể đi tới những tiên đoán lạ lùng; 2/ Được kiểm chứng bởi rất nhiều thí nghiệm, toàn những thí nghiệm lịch sử: từ thí nghiệm của Arthur Eddington năm 1919 xác nhận tính cong của ánh sáng đến thí nghiệm hôm nay xác nhận sự tồn tại của sóng hấp dẫn,…

Đó mới thực sự là khoa học để chúng ta học hỏi, tin tưởng, noi theo.

Trong khi đó, thuyết tiến hóa của Darwin có bằng chứng gì? Những giả thuyết về biến dĩ ngẫu nhiên, chọn lọc tự nhiên, sự hình thành sự sống tự phát,… dựa trên thực tế nào? Tuyệt nhiên không có! Đó là lý do để nhà sinh hóa bậc nhất thế kỷ 20, Ernst Chain, một trong những cha đẻ của khoa học về kháng sinh, nhận định: thuyết tiến hóa chỉ là một “giả thuyết vô bằng chứng và mâu thuẫn với thực tế” và “không đáng gọi là một lý thuyết”, “không phải là một bộ phận của khoa học”.

Einstein vs DarwinTrong một bài báo nhan đề “Einstein vs Darwin” (Einstein đối lập với Darwin), nhà vũ trụ học nổi tiếng Frank Tipler, giáo sư vật lý toán tại Đại học Tulan ở New Orleans, Mỹ, nhận định: “Mặc dù Einstein và Darwin là hai tên tuổi lớn thuộc hai lĩnh vực khác xa nhau, nhưng không thể cả hai cùng đúng. Nếu Einstein đúng thì ắt Darwin phải sai và ngược lại”. Nay ta thấy rõ là Einstein đúng, và Darwin không đáng được coi là một nhà khoa học. Đúng ra, ông nên được xem như một nhà viết truyện khoa học viễn tưởng, và truyện của ông chỉ đánh lừa được những người ưa chuyện viển vông, phỏng đoán vô căn cứ.

Hoan hô Einstein, nhà khoa học vĩ đại tin vào Đạo Vũ trụ! Hoan hô các nhà vật lý đã chứng minh Einstein một lần nữa lại đúng!

PVHg, Sydney 14/02/2016

CHÚ THÍCH:

[1]: Nhìn thuyết tiến hóa dưới góc độ triết học

[2]: Nan đề Sáng thế

Tài liệu tham khảo:

Gravitational waves have been detected for the first time

Gravitational waves: Numbers don’t do them justice

 

13 thoughts on ““Rosetta stone” of cosmology has been found / Đã tìm thấy “hòn đá thử vàng” của vũ trụ học

  1. Cháu thấy Big Bang có quá nhiều lỗ hổng mà các nhà khoa học vẫn chưa thể giải thích dc 1 cách chặt chẽ.

    ví dụ phản vật chất, nếu Big Bang giải phóng 1 nguồn năng lượng khổng lồ, năng lượng này sau đó chuyển hóa thành vật chất và phản vật chất theo công thức E^2= (mc2)2. Vì nghiệm của phương trình này có 2 nghiệm âm và dương, nên vật chất và phản vật chất sinh ra là như nhau, nhưng vũ trụ ngày này chỉ toàn là vật chất, vậy phản vật chất đi đâu ?.

    Rồi, là sự thiếu hụt vô cùng lớn Population III Star hình thành sau Big Bang. Vũ trụ ngày nay quan sát dc chỉ toàn là Population I Star và Population II Star. Vây Population III Star đi đâu ?.

    Thường thì 1 vụ nổ chỉ đem tới sự hỗn độn. Làm sao mà từ 1 cái không trật tự, lại thành 1 cái trật tự dc ?.

    Cháu thấy Big Bang là 1 thuyết có quá nhiều sai lầm.

    Các nhà tiến hóa đã áp dụng sự tiến hóa 1 cách máy móc, đem tiến hóa và tiến hóa vũ trụ.

    Khi đề ra thuyết Big Bang, họ lại vấp ngay 2 vấn đề : Horizon Problem và Flatness Problem. Để giải quyết vấn đề này các nhà khoa học lại đẻ ra cái thuyết Inflation theory. Thuyết trong thuyết,bản thân thuyết lạm phát vũ trụ lại chứa đựng 1 đống vấn đề nữa.

    Tại sao cứ loay hoay đặt cả đống thuyết ?

    Thực sự Big Bang không hề có, họ biết, tại sao lại bám vào đó ?.

    Thích

    • Hoan nghênh ý kiến của bạn. Ý kiến của bạn có nhiều điểm có lý. Thực ra tôi cũng có những dấu hỏi về Big Bang. Nhưng cũng có rất nhiều dữ kiện ủng hộ Big Bang. Vì thế Big Bang có thể là một lý thuyết ở dạng chưa hoàn chỉnh, sẽ còn được điều chỉnh nhiều. Tôi cũng không thích việc sử dụng thuật ngữ “tiến hóa” cho quá trình biến hóa của vũ trụ. Đó là sự lạm dụng thuật ngữ này, một căn bệnh của thời đại.
      Riêng về vấn đề phản vật chất biến đi đâu, tôi đã có một bài báo trả lời vấn đề này, bạn có thể tìm trong “Những câu chuyện khoa học hiện đại” của tôi (có trên PVHg’s Home). Có thể tôi sẽ nhắc lại vấn đề này trong một bài viết mới.
      Thực ra sẽ không bao giờ có một lý thuyết hoàn chỉnh. Một lý thuyết tốt cũng chỉ đáp ứng được một số câu hỏi giới hạn mà thôi. Nhất là một lý thuyết có ý muốn trả lời cái toàn bộ, cái tuyệt đối càng sẽ không hoàn chỉnh và thậm chí là bất khả. Không riêng Big Bang, ngay cả Mô hình Chuẩn của vật lý cũng chưa chuẩn, vì luôn luôn xuất hiện những thách thức mới đe dọa sự sụp đổ của lý thuyết, nếu không vượt qua được. Nhưng đó là cái được gọi là khoa học. Mở rộng hơn nữa, nhận thức của con người trên mọi phương diện đều rất hạn chế. Vì thế con người phải khiêm tốn. PVHg

      Thích

    • một cách tổng quát là con đường duy lý thuần suy luận sẽ ko bao giờ đi được đến tận cùng bản chất, các nhà thần học đã giải quyết xong các vấn đề từ lâu với câu nói của Chúa : Phúc cho ai không thấy mà tin.
      Giải đáp cho câu hỏi là phản vật chất hay Population III Star đã đi đâu thì câu trả lời rất đơn giản : Chúng đã biến mất theo ý Chúa hay đấng sáng tạo. Nghe thì có vẻ khiên cưỡng nhưng nó cũng rõ ràng như câu hỏi : Tại sao 7 hằng số cơ bản của vật lý lại được điều chỉnh một cách tinh tế đến như vậy, đến mức là nếu như chúng chỉ khác đi 1 tí 1 tí thôi thì vật chất cũng sẽ chẳng hình thành đc và sự sống cũng sẽ tương tự, các nhà khoa học với công nghệ Computer đã giả lập vô vàn vũ trụ ban đầu với các thông số khác nhau của 7 hằng số và rút ra kết luận đó, vậy thì chẳng phải Đấng sáng tạo đã can thiệp vào đấy sao. Thật dễ hiểu phải ko nào.
      Khoa học giống như con người dùng chân bước đi từng bước dò dẫm khám phá xung quanh, còn thần học thì như người có tấm bản đồ chi tiết vạn vật toàn vũ trụ, thần học cao hơn khoa học, cao hơn cả triết học, vậy thì sự dò dẫm làm sao có thể chiến thắng bản đồ vạn vật đc.
      Có đôi dòng kính phím !

      Thích

  2. 1. Thuyết tương đối hẹp và rộng của Einstein cho đến nay vẫn được coi là MỘT LÝ THUYẾT ĐẸP ĐẼ NHẤT VỀ TỰ NHIÊN MÀ CON NGƯỜI CÓ THỂ NGHĨ RA ĐƯỢC. Thuyết này đã tiên đoán nhiều sự kiện: sự cong của tia sáng khi đi qua vùng hấp dẫn mạnh, thấu kính vũ trụ, hố đen, trường và hạt hấp dẫn, sóng hấp dẫn, bản chất của lực hấp dẫn được quy về hình học của không – thời gian Vũ trụ v.v…

    Sự kiện phát hiện ra SÓNG HẤP DẪN được công bố trong mấy ngày vừa qua là MỘT TIN RẤT VUI đối với cộng đồng khoa học và nó cũng mở ra những trang mới cho Vật lý học nói chung và Vật lý thiên văn nói riêng. Nó bổ sung thêm vào tập hợp các BẰNG CHỨNG chứng minh Thuyết tương đối rộng là một thuyết đúng đắn. Tình hình này trái ngược hoàn toàn với thuyết tiến hóa của Darwin: cho đến nay người ta vẫn chưa tìm ra được một bằng chứng nào minh chứng cho học thuyết này: học thuyết này vẫn luẩn quẩn trong mớ khái niệm không thể kiểm chứng được trong thực tế.

    2. Trong qua trình phát triển Thuyết tương đối rộng, Einstein đã phải dựa vào một thứ hình học, đó là HÌNH HỌC RIEMANN. Georg Friedrich Bernhard Riemann (1826-1866) là một nhà toán học thiên tài người Đức và là học trò cuả C. F. Gauss (1777-1855) – Ông vua số học làm việc tại Đại học Goettingen của Đức (xin lưu ý các bạn rằng: Gauss được xếp ngang hàng với Leonhard Euler, Isaac Newton và Archimedes như là những nhà toán học/ khoa học vĩ đại nhất của lịch sử)
    Hình học Riemann là một nhánh của hình học vi phân nghiên cứu các đa tạp Riemann, đa tạp trơn với metric Riemann hay với một tích trong (inner product) trên không gian tiếp tuyến tại mỗi điểm mà các điểm này thay đổi trơn từ điểm này sang điểm khác. Điều này cho các kết quả đặc biệt như khái niệm cục bộ về góc, độ dài cung, diện tích mặt, và thể tích. Từ các khái niệm này một vài đại lượng toàn cục được truy dẫn ra bằng cách tích phân các thành phần cục bộ.
    Hình học Riemann bắt nguồn từ tầm nhìn của Bernhard Riemann trong luận án của ông Über die Hypothesen, welche der Geometrie zu Grunde liegen ( Về các giả thuyết trong đó hình học là cơ sở). Nó là một sự tổng quát trừu tượng và rộng lớn của hình học vi phân các mặt cong trong không gian 3 chiều R3. Hình học Riemann đã tổng hợp rất nhiều kết quả khác nhau trong hình học của các mặt và mối quan hệ của các đường trắc địa trên các mặt, các kĩ thuật của nó được ứng dụng để nghiên cứu các đa tạp khả vi trong không gian nhiều chiều. Hình học Riemann cũng được áp dụng trong THUYẾT TƯƠNG ĐỐI RỘNG của Albert Einstein, nó cũng có tác động tích cực đến lý thuyết nhóm và lý thuyết biểu diễn, cũng như là giải tích toàn cục, và là động lực để phát triển tô pô đại số và tô pô vi phân.
    Rõ ràng Einstein, cũng như Newton trước đây, phải đứng trên vai NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ.
    Đến đây chúng ta càng thấy vai trò của giáo dục và sự hợp tác vô vị lợi trong cộng đồng các nhà khoa học. Các thành tựu khoa học phải được coi là tài sản trí tuệ chung của nhân loại.

    Thích

  3. Cháu nhận được một phản hồi về cách gọi tên “sóng hấp dẫn”. Nay gửi lên đây để mọi người tham khảo. Nguyên văn:

    “Tôi đã nói trong hai status trước, dùng từ “sóng hấp dẫn” để dịch “ondes gravitationnelles – gravitational waves” là sai.

    Về ngữ học, đã nói, “gravitation” có từ nguyên latin là “gravis”, có nghĩa là “nặng”. Theo tôi, phải dịch “ondes gravitationnelles – gravitational waves” là “sóng trọng”.

    Có người nói nên dịch là “sóng trọng lực”. Cách dịch này theo tôi là không đúng, vì thừa chữ “lực”. “Sóng trọng lực – ondes de gravité – gravity waves” còn là một hiện tượng vật lý khác, chỉ những rối loạn về “không khí” trong bầu khí quyển.

    Cái sai về cách dịch “sóng hấp dẫn” đến từ việc lẫn lộn ý nghĩa giữa “attraction” và “gravitation”.

    “Attraction” có nghĩa là “hấp dẫn, thu hút, sức hút…”.

    “Gravitation”, chỉ trong một số trường hợp nhứt định, đồng nghĩa với “attraction”, là hấp lực, là sự thu hút hỗ tương (giữa hai vật thể).

    Trong bất kỳ trường hợp (vật lý) nào, “attraction” có ý nghĩa không đổi.

    Trong khi “gravitation” là nguồn gốc của nhiều hiện tượng vật lý khác nhau : 1/ nguồn sinh ra trọng lượng của một vật thể, 2/ nguồn sinh ra trọng lực (g, gia tốc trọng trường), 3/ là nguồn sinh ra (hay tác động đến) những chuyển động trong trái đất, 4/ sự cân bằng về chuyển động các vật thể trong không gian, vũ trụ… 5/ là nguồn phát sinh ra “ondes gravitationnelles – gravitational waves”…

    Cho đến các hiện tượng “nổ trong vũ trụ” (supernovae), sự thành hình “sao neutron”, “lỗ đen”… cũng bắt nguồn từ “gravitation”.

    Ta có thể kể ra hàng loạt các hiện tượng vật lý có nguồn từ “gravitation”.

    Bởi vì, các hiện tượng dẫn trên, đều lệ thuộc vào “hằng số G”, còn gọi là “hằng số Newton”.

    Các hiện tượng (vật lý) trên đây chỉ có điểm 3 và 4 là quan hệ đến “attraction”, “hấp dẫn”, sự thu hút hỗ tương (là đầu mối của luật vạn vật hấp dẫn). Mà ở hai trường hợp này, “attraction” là “hệ quả”, còn “gravitation” là “nguyên nhân”.

    Làm sao có thể đồng hóa “nguyên nhân” với “hệ quả”?

    Đâu thể nào lấy một (hay hai) điểm chung này rồi đồng hóa, áp đặt cho tất cả các hiện tượng (vật lý) khác ?

    Cái sai về cách dịch của người Việt là vậy.

    Về hiện tượng “sóng trọng” (ondes gravitationnelles – gravitational waves). Theo Einstein, không gian-thời gian chung quanh một vật thể (trong vũ trụ) bị co giản lại (cong lại) do “trọng trường” của vật thể. Einstein tiên đoán có sự hiện hữu của “sóng trọng” nếu “trọng trường” của vật thể này, vì lý do nào đó, đột ngột thay đổi.

    Vừa rồi các khoa học gia đã “bắt” được những tín hiệu, cho phép chứng minh sự hiện hữu của “sóng trọng”, xác định tiên đoán của Einstein là đúng.

    Sóng trọng, một cách đơn giản, là sự lan truyền hiện tượng co giản về “không gian – thời gian” trong vũ trụ, đến từ sự thay đổi đột ngột của trọng trường, như “sao nổ, supernova”, sự chuyển trục của sao neutron, hay như (mới vừa rồi) sự “đụng nhau” giữa hai “lỗ đen”…”

    Thích

    • Thank you bạn,
      Bạn nói là bạn nhận được một phản hồi. Vậy phản hồi của ai đấy? Vị nào phản hồi như thế hẳn phải thuộc loại “ông đồ nho” ngày xưa mà người ta gọi là “dò từng câu đếm từng chữ”, không nắm cái thần của chữ nghĩa, mà thích bắt bẻ vớ vẩn. Chữ nghĩa nó có cái thần + sức sống + lịch sử của nó, phải hiểu cái thần của nó mà dịch.
      Toàn bộ lý luận của “ông đồ” này nằm ở câu sau đây: [Về ngữ học, đã nói, “gravitation” có từ nguyên latin là “gravis”, có nghĩa là “nặng”. Theo tôi, phải dịch “ondes gravitationnelles – gravitational waves” là “sóng trọng”].
      Nói thế là không hiểu sức sống của từ ngữ. Xin giải thích :
      Trọng lực (sức nặng) là khái niệm có trước, có từ xửa xừa xưa, lực hấp dẫn là khái niệm có sau, kể từ khi Newton khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn – định luật nói rằng tất cả mọi vật chất có khối lượng đều hút nhau.
      Trọng lực chẳng qua là lực hấp dẫn do Trái Đất tác động lên vật đó. Bản chất của trọng lực là lực hấp dẫn. Kể từ đó chữ « gravity » mà « ông đồ nho » nói là xuất phát từ tiếng Latin có nghĩa là « nặng » bắt đầu có nghĩa rộng là « hấp dẫn ». Đó là lý do để chữ « gravity » bắt đầu mang ý nghĩa tổng quát trong khắp vũ trụ là « sức hấp dẫn hoặc sức hút giữa tất cả các vật chất có khối lượng ».
      Nói nôm na, chữ nghĩa nó sống, có lịch sử diễn biến theo sự hiểu biết của con người, chứ nó không chết với ý nghĩa nguyên thủy.
      Ngày xưa khi chúng ta còn nhỏ đi học, định luật của Newton được gọi là Định luật vạn vật hấp dẫn (law of universal gravitation) – các vật có khối lượng hút nhau bởi một lực và lực ấy được gọi là lực gấp dẫn.
      Tôi không rõ ai là người đầu tiên dịch “law of universal gravitation” là “định luật vạn vật hấp dẫn”, nhưng phải chăng là cụ Hoàng Xuân Hãn, vì cụ là người đầu tiên làm cuốn sách danh từ toán học Pháp-Hán-Việt. Cụ là bậc chữ nghĩa bác học, khi dịch, chắc chắn cụ đã hiểu thấu nghĩa lý của chữ nghĩa và tham khảo sách vở đông tây đầy đủ kỹ lưỡng.
      Có lẽ thuật ngữ “Định luật vạn vật hấp dẫn” đã được chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng Việt thông qua hoặc tham khảo tiếng Hán, có nghĩa là xem xem các học giả Trung Hoa dịch thế nào thì người Việt chỉ cần chuyển sang Hán-Việt là xong.
      Trong thời đại ngày nay, nhiều từ Hán-Việt đã được thay thế bởi từ Việt thuần túy, nhưng thuật ngữ khoa học thì rất khó làm được điều đó, vì vốn từ thuần Việt trong khoa học quá thiếu thốn.
      Vả lại nhiều từ Hán-Việt không còn là Hán nữa, mà đã được “thần chủng” để trở thành Việt hoàn toàn rồi. Ngôn ngữ có sức sống và lịch sử của nó là như vậy. « Ông đồ » của chúng ta không hiểu nên có một góp ý thật thiếu hiểu biết, lại còn giảng giải Einstein thế này thế nọ để làm gì vậy ? PVHg

      Thích

      • dùng từ “hủ nho” cho phản hồi này là chính xác, nếu dùng “ông đồ nho” sẽ làm mất đi cái trang trọng của bậc trí giả.

        Thích

  4. 1. Các thuật ngữ khoa học có cuộc sống và lịch sử riêng của chúng, đôi khi khá phức tạp.
    2. Tình hình lại càng phức tạp đối với hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Nên nhớ rằng hệ thống từ Hán – Việt thực sự dày đặc trong ngôn ngữ Việt.
    3. Nền khoa học – kỹ thuật của Việt Nam lại rất non trẻ nên hệ thống thuật ngữ khoa học của Việt Nam khó mà hoàn chỉnh trong một sớm một chiều.
    4. Một thí dụ vui như sau: trong những năm 1950 thì gần như toàn bộ tên của các bộ phận của một chiếc xe đạp đều phải vay mượn từ tiếng Pháp cả (!). Cho đến nay đến từ xà-phòng vẫn còn được dùng, thực ra là “bồi hóa” từ tiếng Pháp là “savon” đó (!). Có thể nêu nhiều, rất nhiều thí dụ khác.

    Thích

  5. bài viết hay quá, tôi chỉ có một thắc mắc là tại sao lại dùng thuật ngữ “đá thử vàng” mà ko phải là “lửa thử vàng” ạh. Mong bác giải đáp. Cảm ơn bác !

    Thích

  6. xin mạn phép xưng hô thưa thầy – trò! thưa thầy học trò đã đọc rất nhiều bài viết của thầy, mặc dù chẳng liên quan đến nghành nghề của trò (ngành nông nghiệp) nhưng những bài của thầy trò rất mê! trò có ý nghĩ thế này: thực chất khoa học đã đi sau tôn giáo và thực sự là đang chứng minh tôn giáo bởi vì những công trình khoa học được công bố thì tôn giáo đã đề cập từ hàng thế kỷ trước nhưng có điều họ mô tả các hiện tượng theo thiên hướng thần thánh hóa và sử dụng nó làm công cụ lãnh đạo tư tưởng. Ở Việt Nam không có nhiều tài liệu để tham khảo và nếu có cũng không có giá trị tham khảo do đó đây là ý kiến chủ quan không có giá trị khoa học nhưng thầy có thể thấy rằng đạo giáo, phật giáo…những tôn giáo phương đông (những tôn giáo phương tây trò không có điều kiện tìm hiểu) đều đề cập đến hình thành vũ trụ, tồn tại vũ trụ, thái cực, âm dương, ngũ hành… chúng đều hiện diện đâu đó trong các công trình khoa học từ trước đến nay!

    Thích

Bình luận về bài viết này