Gödel: Materialism is False! / Gödel: Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm!

0

In the article “Kurt Gödel: Materialism is false”, Dr John Spencer wrote: “In any case, it doesn’t matter how many logical arguments you present against materialism, or how many pioneering scientists you quote who reject materialism, because in the end the hardheaded materialist will refuse to listen”. Then Spencer put a question: “was Plato correct in referring to materialists as ‘terrible men’ and ‘very stubborn and perverse mortals’?”. In this case, questioning is having answered…

Trong bài báo “Kurt Gödel: Chủ nghĩa duy vật là sai lầm”, TS John Spencer viết: “Trong mọi trường hợp, dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai”. Rồi Spencer đặt câu hỏi: “Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là ‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?”. Trong trường hợp này, hỏi tức là đã trả lời

Lược sử tối giản của chủ nghĩa duy vật

Chủ nghĩa Duy vật là tư tưởng và học thuyết cho rằng toàn bộ thế giới hiện thực là vật chất và chỉ có vật chất mà thôi – không tồn tại bất cứ cái gì là phi vật chất hoặc siêu tự nhiên, không có Chúa, không có phép mầu,… Với chủ nghĩa duy vật, các khái niệm tưởng là phi vật chất như tư tưởng, tinh thần xét cho cùng cũng chỉ là sự biểu lộ của hoạt động vật chất.

Chủ nghĩa duy vật không phải là một hiện tượng mới mẻ. Nó vốn có từ xa xưa, ít nhất từ thời cổ Hy Lạp. Có lẽ ngay từ thời ấy nó đã tỏ ra kém cỏi trong khả năng giải thích thế giới nên Plato, một trong những cha đẻ của nền văn minh triết học và khoa học Tây phương, đã phải phê phán nó một cách gay gắt như đã dẫn trong bài báo của John Spencer nói trên. Đối với Plato, Cái Đẹp (The Beauty), Cái Thiện (The Goodness), Luật Đạo Đức (The Moral Law) là những giá trị phi vật chất nói lên sự hiện hữu của Chúa. Nếu không tin Chúa đã « thổi » tâm tính tốt đẹp vào con người thì sẽ rất khó giải thích vì sao con người có xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức, trong khi mọi tạo vật khác không có ý thức về những giá trị này (Chú ý rằng xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức hoàn toàn trái ngược với quy luật “đấu tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua” của thuyết tiến hóa Darwin).

Nhưng mặc dù chủ nghĩa duy vật đã có từ xa xưa, nó chưa bao giờ trồi lên mạnh mẽ như từ giữa thế kỷ 19 để trở thành một hệ tư tưởng khuynh đảo xã hội từ đó cho tới nay. May mắn thay, chính khoa học lại cung cấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy chủ nghĩa duy vật không phải là một tiến bộ về nhận thức, mà hóa ra mà là một bước thụt lùi. Đó là lý do để giữa thế kỷ 20, đúng vào lúc chủ nghĩa duy vật lên đến tột đỉnh và các nhà duy vật đang ngạo nghễ đắc thắng, nhà toán học trứ danh Kurt Gödel đã hạ bệ nó bằng một tuyên bố chắc nịch: « Chủ nghĩa duy vật là sai lầm ! ».

Mãi đến cuối thế kỷ 20, khi Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness) của Gödel được thừa nhận một cách rộng rãi thì nhiều người mới bắt đầu giật mình tỉnh ngộ ra để nhìn nhận lại bản chất của chủ nghĩa duy vật. Tại sao vậy ? Vì định lý Gödel chỉ ra rằng chủ nghĩa duy vật, bao gồm logic máy móc và tư duy cơ giới thô thiển, đã tự bịt mắt trước sự thật – thế giới hiện thực rộng hơn thế giới nhận thức ; thế giới nhận thức rộng hơn tư duy khoa học; tư duy khoa học rộng hơn tư duy logic máy móc… Nói cách khác, có nhiều chân lý nằm bên ngoài thế giới nhận thức bằng thực chứng và logic – khoa học duy vật không bao giờ đủ để nhận thức được chân lý đầu tiên, chân lý cuối cùng và chân lý toàn thể. Muốn nhận thức sâu hơn và rộng hơn về thế giới, bắt buộc con người phải sử dụng nhiều phương pháp nhận thức khác nhau để tiệm cận tới chân lý. Những phương pháp nhận thức này tuy khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau, trong đó trực giác đóng vai trò định hướng dẫn đường.

Trực giác là gì nếu không phải ánh sáng của Chúa soi rọi vào mỗi con người ?

Albert Einstein là người nhấn mạnh đến trực giác nhiều nhất. Ông từng nói « Tư duy trực giác là quà tặng thiêng liêng… » (The intuitive mind is the sacred gift…). Quà tặng thiêng liêng đó là của ai, nếu không phải của Chúa ? Không thừa nhận sự thật này thì làm thế nào để giải thích sự hiện hữu của trực giác ? Computer vượt xa chúng ta về tốc độ và sức khỏe tính toán nhưng chỉ là một gã ngu đần khi đứng trước một vấn đề đòi hỏi trực giác. Chủ nghĩa duy vật không dám phủ nhận trực giác, nhưng nó lúng túng không biết làm thế nào để giải thích trực giác, vì thế nó nói bừa rằng đó là bản năng tự nhiên và nhờ “tiến hóa” mà có. Khái niệm “tiến hóa” là một khái niệm mơ hồ, bởi thực tế không bao giờ có một cơ chế tiến hóa nào có thể kiểm chứng được một cách cụ thể, rõ ràng.

Thực tế, trực giác là một trong những bí ẩn lớn nhất của tự nhiên – khả năng nắm bắt được bản chất sự vật một cách trực tiếp ngay tức khắc không thông qua lý luận. Trực giác có nhiều tầng khác nhau. Ở tầng thấp, một học trò có trực giác tốt sẽ định hướng lời giải của một bài toán hình học nhanh hơn những học trò có trực giác kém. Ở tầng cao, trực giác giúp Isaac Newton cảm thấy có lực hấp dẫn giữa các vật chất có khối lượng, Albert Einstein “nhìn thấy” quy luật tương đối chi phối tự nhiên, Louis Pasteur “cảm thấy” tính bất đối xứng của sự sống,… Ở tầng cao hơn nữa, nó giúp con người “nhìn thấy” những thế giới không nhìn thấy – thế giới siêu tự nhiên, phi vật lý, nơi phương pháp thực chứng và logic của khoa học hoàn toàn bất lực. Vì thế những thầy giáo giỏi không phải là những người truyền đạt giỏi, mà là những người giỏi đánh thức người học, giúp người học tỉnh thức để vận dụng trực giác sẵn có trong tâm mà thấu cảm chân lý, thay vì lý luận chứng minh. Đức Phật và Đức Chúa Jesus là những nhà truyền giảng và đánh thức vĩ đại. Câu nói bất hủ của Chúa Jesus, rằng “Phúc cho ai không thấy mà tin” là một lời đánh thức tất cả những ai muốn tìm chân lý, nhưng rất tiếc là có nhiều người không hiểu, thờ ơ với lời đánh thức đó. Nhưng những người như Kurt Gödel thì không như vậy. Lời nói quả quyết của ông, Chủ nghĩa duy vật là sai lầm, chứng tỏ ông là một người tỉnh thức hơn ai hết – ông phủ nhận chủ nghĩa duy vật và vô thần quyết liệt tới chừng nào.

Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều người hiểu Gödel hơn, và do đó ngày càng có nhiều người từ bỏ chủ nghĩa duy vật hơn. Tiến sĩ John Spencer, với tư cách một nhà triết học về vật lý lượng tử, đã ủng hộ Gödel bằng lập luận logic một cách mạnh mẽ đến nỗi phải trích dẫn Plato để phê phán chủ nghĩa duy vật như một thứ triết học tầm thường và ngoan cố. Lập luận của Spencer vừa mang tính khoa học vừa mang tính triết học.

Logic bác bỏ chủ nghĩa duy vật

Trong bài báo nói trên, Spencer lưu ý độc giả rằng : Kurt Gödel tuy không nổi tiếng như Albert Einstein, nhưng đừng quên rằng ông là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất thế kỷ 20, và là nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle; bản thân Einstein trong thời gian làm việc cùng với Gödel tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton đã từng công khai nói với mọi người rằng ông đến Viện nghiên cứu chỉ cốt để gặp gỡ trò chuyện với Gödel, rồi cùng đi bộ với Gödel về nhà; một bạn thân khác của Gödel tại đây là nhà toán học lừng danh John von Newman, một trong những cha đẻ của computer ngày nay.

Vậy điều gì đã làm cho một nhà khoa học bậc nhất như Gödel chối bỏ chủ nghĩa duy vật?

Spencer nói: “Chủ nghĩa duy vật, một thứ triết lý dựa trên tiên đề cho rằng chỉ có vật chất mới là cái có thật, đã trở thành nền tảng cố hữu không thể tranh cãi trong rất nhiều trường phái khoa học chính thống”.

Cái nền tảng ấy đã trở thành một xiềng xích trói buộc, một tảng đá đè nặng lên tư duy khoa học, cản trở tư duy sáng tạo đến nỗi nhà thần kinh học Mario Beauregard đã phải lên tiếng kêu gọi: “Nay đã đến lúc chúng ta phải tự giải phóng mình ra khỏi những xiềng xích trói buộc và những tấm vải che mắt của ý thức hệ duy vật cỗ lỗ sĩ” (It’s now time to free ourselves from the shackles and blinders of the old materialist ideology).

Thực ra những người tài giỏi thực sự không cần phải chờ đợi lời kêu gọi đó. Họ đã tự giải phóng mình từ lâu, đúng như Spencer nhận xét: “Trớ trêu thay, có một sự thật là nhiều nhà khoa học đi tiên phong trong khoa học hiện đại từ vài thế kỷ trước đây cho tới những nhà sáng lập cơ học lượng tử như Max Planck và Werner Heisenberg cũng đều bác bỏ chủ nghĩa duy vật”.

Ủng hộ lời kêu gọi của Mario Beauregard, John Spencer nêu lên một lập luận 9 điểm để bác bỏ chủ nghĩa duy vật:
1. Các định luật vật lý là nền tảng của tất cả mọi khoa học.
2. Các định luật vật lý là những quan hệ toán học.
3. Các quan hệ toán học phụ thuộc vào các con số.
4. Mọi con số được xây dựng từ 1 và 0 (“2” là 1 + 1, và zero là sự vắng mặt của mọi thứ)
5. Số 0 bản thân nó là phi vật lý (nó không đại diện cho bất kỳ một vật chất cụ thể nào cả).
6. Số 1 bản thân nó cũng phi vật lý. Có thể có 1 cái cây, 1 cái ôtô,… nhưng bản thân số 1 không phải cái cây hoặc cái ôtô (số 1 chỉ là một mã hoặc một thông tin).
7. Vì các số là “cái gì đó” phi vật lý, do đó các định luật vật lý thể hiện hoặc phụ thuộc vào cái gì đó phi vật lý.
8. Vậy buộc phải đi đến kết luận: hoặc a) các định luật vật lý là có thực nhưng phi vật lý, điều này cho thấy chủ nghĩa duy vật là sai; hoặc b) các định luật vật lý là phi hiện thực, điều này làm cho nền tảng của mọi khoa học trở thành phi hiện thực.
9. Bất chấp thắng lợi phi thường bề ngoài của khoa học, nếu nền tảng của khoa học là phi hiện thực thì rốt cuộc nó không thể cung cấp bất kỳ cơ sở nào cho chân lý khách quan trong hiện thực, và do đó không thể nói rằng chủ nghĩa duy vật phản ánh chân lý khách quan.

The Eternal LawLập luận trên đã được Spencer phát triển lên một trình độ sâu sắc hơn rất nhiều trong cuốn “The Eternal Law” (Định luật Vĩnh cửu), một cuốn sách tích hợp các tri thức triết học, khoa học và thậm chí cả tâm linh, rất đáng đọc, đã được nhà toán học và vật lý lỗi lạc Roger Penrose đánh giá là một cuốn sách làm cho người đọc cảm thấy “vô cùng khoan khoái” (enormously refreshing). Nhưng bất chấp ý kiến của những người như Penrose, các nhà duy vật vẫn ngoan cố cho rằng ngoài vật chất chẳng có bất cứ thứ gì khác. Spencer than phiền: “Trong mọi trường hợp, dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai. Vì thế người ta phải băn khoăn tự hỏi: Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là ‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?” [0].

Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Sự thật dễ thấy nhất là hầu hết những nhà khoa học giỏi nhất, thâm thúy nhất đều từ chối chủ nghĩa duy vật. Để lập một danh sách những nhà khoa học như thế, xin lấy một nhận định của Louis Pasteur làm tiêu chuẩn: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa” (Un peu de science nous éloigne de Dieu, beaucoup nous y ramène).

Đó là một nhận định chính xác. Quan sát thực tế, tôi thấy đa số những người có đầu óc khoa học nửa vời, thậm chí tầm thường, thường trở thành những kẻ tự phụ, tưởng mình có thể “thế thiên hành đạo”, bịa ra những lý thuyết giải thích thế giới mà không cần đến Chúa; ngược lại những người tài giỏi thực sự lại có thái độ khiêm tốn, biết kinh ngạc thán phục trước những kỳ quan của Tạo Hóa, và do đó tin vào sự hiện hữu của những lực lượng siêu nhiên.

Einstein có lẽ là một nhân vật tiêu biểu nhất cho loại người biết kinh ngạc trước những phép mầu của Tự nhiên, vì thế ông cũng là người nêu lên một công thức chính xác để đo lường tri thức của con người: Ego = 1/Knowledge (Cái tôi = 1/Tri thức)cái tôi tỷ lệ nghịch với tri thức, tri thức càng ít thì cái tôi càng lớn, tri thức càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ.

Người có cái tôi lớn thường không thừa nhận Chúa, người có cái tôi nhỏ thường thừa nhận Chúa, thán phục Chúa. Một người có khiêm tốn hay không, hãy xem anh ta đối xử với Chúa như thế nào. Cách đo lường đó hoàn toàn phù hợp với “tiêu chuẩn” của Pasteur nói trên. Vậy dựa trên “tiêu chuẩn” này, xin nêu một danh sách những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại từ chối chủ nghĩa duy vật như sau đây.

NHỮNG NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI CÓ ĐỨC TIN VÀO CHÚA

1.Galileo Galilei (1564-1642) :

1Việc Tòa án Giáo hội Công giáo La mã năm 1633 kết tội Galileo vì ông ủng hộ thuyết Nhật tâm đã trở thành một vết đen trong lịch sử Công giáo, đánh dấu một cuộc đối đầu không đáng có giữa khoa học và tôn giáo, để lại một hệ lụy vô cùng đáng tiếc cho tới tận hôm nay. Hệ lụy lớn là gây ra một sự hiểu lầm vô cùng tai hại rằng khoa học và tôn giáo là hai hệ thống nhận thức đối đầu nhau và loại trừ lẫn nhau từ trong bản chất. Hệ lụy nhỏ là gây ra sự hiểu lầm lớn rằng Galileo là người vô thần, chống đối tôn giáo. Cả hai hệ lụy đó đều bắt nguồn từ sai lầm của Tòa án Giáo hội năm 1633. Năm 1992, sau 13 năm nghiên cứu lại vụ án Galileo, Giáo hội Công giáo La mã dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Jean Paul II đã chính thức sửa chữa sai lầm của 359 năm trước: thừa nhận Tòa án Giáo hội sai và Galileo đúng, khôi phục lại mọi danh dự cho nhà khoa học chính trực Galileo Galilei. Đây là một quyết định dũng cảm, nhân bản, đề cao công lý, thể hiện rõ ý Chúa. Nhân dịp này báo chí thế giới cũng nói nhiều đến Galileo, qua đó cho thấy ông là người có Đức tin vững chắc. Thật vậy, ông tuyên bố: “Chúa được biết đến nhờ những công trình Ngài kiến tạo trong tự nhiên, và nhờ những lời dạy Ngài vén mở trong các kinh sách” (God is known by nature in His works, and by doctrine in His revealed word). Đối với Galileo, khoa học càng làm ông tin chắc vào vai trò sáng tạo của Chúa. Đây, hãy nghe ông nói: “Toán học là bảng chữ cái trong đó Chúa viết về vũ trụ” (Mathematics is the alphabet in which God has written the universe).

2.Isaac Newton (1643-1727) :

2Newton nổi tiếng là một người Thiên Chúa giáo ngoan đạo, vì thế ông cũng là người rất khiêm tốn, biết mình bé nhỏ và tầm thường trước Đấng Sáng tạo vĩ đại. Khi được hỏi làm thế nào để ông có thể khám phá được nhiều điều kỳ lạ đến thế, ông nói ông chỉ giống như một đứa trẻ dạo chơi ngoài bãi biển, say mê nhặt những vỏ sò đẹp, và mỗi khám phá của ông giống như một vỏ sò đẹp mà thôi. Khi ông khám phá ra Định luật Vạn vật Hấp dẫn rồi dùng nó để giải thích chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời, có người chất vấn ông: “Nếu không có chuyển động quán tính của hành tinh theo phương tiếp tuyến với quỹ đạo thì hành tinh sẽ bị hút vào Mặt Trời, vậy chuyển động quán tính ấy từ đâu mà ra?”. Newton đáp ngay: “Đó là cú hích ban đầu của Chúa!”. Ngày xưa thầy dạy vật lý của tôi kể lại chuyện này cho học trò nghe rồi kết luận: “Newton rốt cuộc vẫn là người duy tâm”. Ý thầy chê duy tâm là kém. Lũ trẻ nhỏ chúng tôi đứa nào chẳng tin thầy? Sau này lớn lên tôi mới vỡ nhẽ ra rằng một nhận định sai của giáo dục một khi đã được nhồi nhét vào đầu trẻ em sẽ để lại một hậu quả vô cùng tai hại đối với con người, và điều đó rất khó sửa chữa. Đó chính là tình trạng của thuyết tiến hóa hiện nay. Sau này tự đọc sách, tự suy ngẫm, tôi hiểu ra rằng chỗ thầy tôi chê Newton chính là chỗ để lộ thiên tài của Newton. Thiên tài hơn người tầm thường ở chỗ cảm nhận được cái gì là có thể, cái gì là không thể. Giải thích nguyên nhân đầu tiên là không thể! Nguyên nhân đầu tiên luôn luôn thuộc về Chúa. Tôi dám phát biểu điều đó như một định lý. Sự sống đầu tiên cũng vậy. Thuyết tiến hóa SAI vì nó bịa ra sự sống đầu tiên nẩy sinh từ “nồi soup nguyên thủy”. Hơn 150 năm sau vẫn không làm thế nào mà chứng minh được chuyện bịa này là sự thật. Thay vì thừa nhận chuyện bịa đó đã thất bại, các nhà tiến hóa lại bịa ra những giả thuyết mới, chẳng hạn giả thuyết về “thế giới RNA”, và cứ thế kéo một đám đông khờ dại cả tin đi theo họ. Đám đông này bị cuốn theo đống chữ nghĩa phức tạp hàn lâm mà cứ ngỡ đó là khoa học. Trong khi đó Newton rất tỉnh táo, ông không để cho ai có thể lung lạc được ông. Ông trả lời người chất vấn ông ngay tức khắc bằng một câu trả lời cần thiết nhất, dứt khoát nhất, như một bài học dạy cho người hỏi. Newton biết rõ ai tin Chúa, ai không tin. Hãy nghe ông nói: “Người suy nghĩ nửa vời sẽ không tin Chúa; nhưng người suy nghĩ thấu đáo sẽ phải tin Chúa” (He who thinks half-heartedly will not believe in God ; but he who thinks really has to believe in God).

3.Blaise Pascal (1623-1662) :

3 Tôi đã thảo luận khá nhiều về Pascal trên tất cả những diễn đàn mà tôi từng tham gia, nhưng chưa bao giờ cảm thấy là đủ, vì nhiều lý do. Một, ông quá vĩ đại để có quá nhiều điều cho hậu thế học hỏi, bàn luận; Hai, ông là người Thiên Chúa giáo có Đức tin mãnh liệt, một nhà khoa học có uy tín lớn bênh vực Thiên Chúa giáo, vì thế ông bị giới vô thần ngấm ngầm chống đối bằng cách che đậy, tảng lờ các công trình của ông về triết học và thần học, sao cho càng ít người biết tư tưởng của ông càng tốt. Chính Pascal cũng biết điều đó. Ông nói: “Người ta khinh thường tôn giáo. Họ thù ghét nó nhưng sợ nó đúng” (Les hommes ont mépris pour la réligion. Ils en ont haine et peur qu’elle soit vraie). Vì thế tôi muốn giới thiệu với mọi người càng nhiều về Pascal càng tốt, nhất là về những gì bấy lâu nay ít người biết. Càng đọc Pascal, tôi càng ngạc nhiên và choáng ngợp vì tầm vóc và chiều sâu tư tưởng của ông. Ông chính là người đầu tiên chứ không phải Kurt Gödel đã thảo luận rất kỹ về tính hạn chế của toán học nói riêng và nhận thức lý lẽ nói chung. Đó là những công trình ông viết về cơ sở của Hình học, trong đó ông chỉ ra rằng không có cách nào để kiểm tra một hệ tiên đề là đầy đủ và tuyệt đối chắc chắn. Từ đó suy ra rằng toán học nói riêng và khoa học nói chung là không đầy đủ và không tuyệt đối chắc chắn. Nhận thức muốn vươn lên cao hơn, phải vận dụng “lý lẽ của trái tim” (la raison du Coeur), Pascal nói, “chính trái tim giúp ta nhận biết Chúa chứ không phải lý lẽ” (C’est le Coeur qui sent Dieu et non la raison). Nếu Gödel có gì khác Pascal, thì đơn giản là ông sinh sau đẻ muộn hơn Pascal gần 3 thế kỷ, và biến những luận điểm triết học khoa học của Pascal thành một định lý toán học không thể tranh cãi: Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness). Vấn đề này đã được thảo luận kỹ trong nhiều bài viết trên PVHg’s Home: “Lý lẽ của Trái tim” (La Raison du Cœur) ngày 05/12/2013, “LỬA của PASCAL” (PASCAL’s FIRE) ngày 16/12/2013; “VỀ TÍNH BẤT TOÀN: TỪ PASCAL ĐẾN GODEL (On the Incompleteness: From Pascal to Godel)” ngày 28/05/2015. Trong những bài đó, tôi đã trích dẫn một ý kiến của Pascal mà qua đó có thể thấy Pascal đánh giá thấp tư tưởng duy vật như thế nào: “Chủ nghĩa vô thần thể hiện sức mạnh của tinh thần, nhưng chỉ ở một mức độ nhất định mà thôi” (Athéisme marque de force d’esprit, mais jusqu’à un certain degré seulement).

4.Gregor Mendel (1822-1884) :

4Mendel là một tu sĩ Công giáo toàn tâm toàn ý, vì thế không có gì phải nghi ngờ Đức tin của ông đối với Chúa. Trong cuốn “Các nhà khoa học có Đức tin” (Scientists of Faith), Dan Graves nhận xét về Mendel như sau: “Mặc dù ông đọc Darwin, nhưng ông không chấp nhận nhiều lý thuyết của Darwin, vì ông tin rằng Chúa sáng tạo ra thế giới và sự ngẫu nhiên mù quáng không thể là lý do tạo ra thế giới…” (Although he read Darwin, he [Mendel] did not accept many of his [Darwin’s] theories, believing that God had created the world and blind chance could not be responsible for the outcome…) [1]. Chú ý rằng thuyết tiến hóa của Darwin nói rằng sự sống đầu tiên hình thành một cách ngẫu nhiên, mù quáng, vô mục đích từ vật chất không sống. Và đó là điều Mendel không thể nào chấp nhận được! Năm 1966, trong một hội nghị lớn tại Mỹ, các nhà toán học cũng thảo luận về xác suất để sự sống hình thành ngẫu nhiên từ các phân tử không sống. Hội nghị đã đi đến kết luận rằng xác suất này vô cùng nhỏ, nhỏ gần như bằng 0, và do đó sự sống không thể xẩy ra ngẫu nhiên. Nhà toán học Anh Fred Hoyle đặc biệt quan tâm tới thuyết tiến hóa, cũng đi đến kết luận rằng sự sống không thể hình thành từ “nồi soup nguyên thủy”. Mendel rất giỏi toán, không biết ông có nghĩ tới việc tính xác suất để phủ nhận Darwin hay không, nhưng trực giác thiên tài của ông đã đủ để ông bác bỏ Darwin. Xin lưu ý độc giả rằng thông tin Mendel bác bỏ Darwin bị giới tiến hóa che đậy trong hơn 150 năm qua. Hiện nay dưới ánh sáng internet, sự thật ngày càng được sáng tỏ. Từ đó tôi dám nói rằng ai đã thực sự ngưỡng mộ Mendel thì ắt phải bác bỏ Darwin. Trường phái “Darwin mới” (Neo-Darwinism) đã phải vội vàng kết hợp học thuyết di truyền của Mendel vào thuyết tiến hóa, nhưng thực chất đã phản lại chính Darwin, vì quan điểm về di truyền của Darwin hoàn toàn khác với các định luật di truyền của Mendel. Quan niệm di truyền của Darwin tiếp thu từ Lamark là một quan niệm hoàn toàn sai lầm, nhưng giới tiến hóa che đậy sự thật này, giấu nhẹm sai lầm của Darwin. Nhưng không che giấu được những người ham hiểu biết. Chỉ cần vào Google, gõ “what did Darwin learn from Lamark?”, sự thật sẽ lộ ra ngay.

5.Louis Pasteur (1822-1895):

Louis PasteurNếu phải mô tả Pasteur bằng một câu ngắn nhất thì đó là : « Pasteur : Người con ưu tú của Chúa và ân nhân của nhân loại ». Giới vô thần không yêu mến Pasteur, vì ông có Đức tin Thiên Chúa giáo sâu sắc, và vì ông chống thuyết tiến hóa một cách rõ rệt. Tương tự như cách họ đối xử với Pascal, giới vô thần cố làm cho mọi người nhắc đến Pasteur càng ít càng tốt, đơn giản vì càng nhắc đến ông càng làm cho thuyết tiến hóa lộ diện là một lý thuyết ngụy khoa học. Đó là lý do vì sao người ta không tiếc lời ca ngợi Pasteur như cha đẻ của khoa học vi sinh (microbiology) và miễn dịch học (immunology), nhưng người ra rất ít nói đến Pasteur như một nhà khoa học lớn khám phá ra những nguyên lý cơ bản của sự sống. Cụ thể người ta rất sợ nhắc đến hai định luật cơ bản của sự sống do Pasteur khám phá: Định luật sự sống bất đối xứng (thuận tay trái) và Định luật sự sống chỉ ra đời từ sự sống (biogenesis). Lẽ ra những định luật mang tính cơ bản này phải được dạy trong chương trình Sinh học ở trường phổ thông. Nhưng chỉ có những sinh viên đại học chuyên ngành mới được học. Tại sao họ sợ hai định luật đó? Vì cả hai đều phủ nhận thuyết tiến hóa khi thuyết này nói rằng sự sống hình thành một cách tự phát và ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Chương trình Sinh học ở trường phổ thông phớt lờ hai định luật cơ bản này và tiếp tục nhồi nhét vào đầu học trò kiến thức sai lầm rằng sự sống hình thành một cách ngẫu nhiên từ vật chất không sống, mặc dù không làm thế nào mà chứng minh được nhận định đó. Khi học trò trở thành người lớn, rất khó để sửa chữa nhận thức sai lầm này, ngay cả khi được trông thấy những bằng chứng rành rành tố cáo sự gian lận của thuyết tiến hóa. Đó là một thảm họa. Tôi tin rằng đến một ngày nào đó, khi thuyết tiến hóa hoàn toàn bị xóa bỏ, công lao của Pasteur sẽ còn được đánh giá cao hơn nữa. Nhưng bản thân ông, ông biết rõ rằng thành công của ông là nhờ có may mắn – ông “có Chúa ở bên trong”. Thật vậy, ông nói: “Người Hy-lạp hiểu được sức mạnh bí ẩn nằm bên dưới sự vật. Chính họ đã cho chúng ta một trong những từ ngữ đẹp nhất trong ngôn ngữ của chúng ta, đó là chữ “enthousiasme” (cảm hứng), chữ Hy-lạp là Εν Θεος , có nghĩa là ‘có Chúa ở bên trong’. Tầm vóc hành vi của con người được đo bởi niềm cảm hứng mà từ đó những hành vi ấy hiện ra. Hạnh phúc thay cho ai có Chúa ở bên trong”.

6.Henri Poincaré (1854-1912) :

6Khi còn là học sinh, Poincaré đã được mệnh danh là “con quỷ toán học” (monstre de mathématiques). Ở tuổi trưởng thành, giới toán học gọi ông là « Mozart của toán học ». Tổng kết cả cuộc đời, giới bác học mô tả ông như “the last Universalist” (nhà đại quảng bác cuối cùng), bởi khó có thể tưởng tượng được bề rộng của những mảnh đất toán học và vật lý mà ông đã khám phá ra hoặc đặt chân tới, rồi để lại ở đó những dấu ấn sâu sắc, những di huấn, những tư tưởng, những bài toán khổng lồ cho hậu thế tiếp tục khai phá. Nhà toán học đàn em nhưng cùng thời với ông, Bertrand Russell, người nổi tiếng với Nghịch lý Russell, không tiếc lời ngợi ca Poincaré là “nhà toán học vĩ đại nhất đang còn sống”, bất chấp sự hiện diện của những nhà toán học lớn đương thời khác như David Hilbert,… Có thể quên công trình nào đó của Poincaré, nhưng không được phép quên ông là cha đẻ của Topo Đại số, cha đẻ của Giả thuyết Poincaré, người đầu tiên định hướng cho lời giải tổng quát của Bài toán Ba Vật thể (Problème à Trois Corps), người đặt nền móng cho Lý thuyết Hỗn độn (Theory of Chaos), đồng tác giả của Thuyết Tương đối hẹp, và đặc biệt, một nhà triết học khoa học nhìn xa trông rộng, kẻ thù số 1 của chủ nghĩa toán học hình thức do Hilbert cầm đầu… Chỉ cần ghé qua tiểu sử khoa học của ông, một người trung thực không thể không có cảm giác khiếp sợ trước những công trình sáng tạo vĩ đại của ông, cả về số lượng lẫn tầm vóc khổng lồ về tư tưởng. Một người vĩ đại như thế mà vẫn biết rằng có Chúa, và Chúa chính là tác giả của những quy luật vũ trụ được diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học: “Nếu Chúa nói với con người, không nghi ngờ gì nữa rằng Ngài sử dụng ngôn ngữ toán học” (If God speaks to man, He undoubtedly uses the language of mathematics), Poincaré nói [2].

7.Max Planck (1858-1947):

7Là cha đẻ của Thuyết Lượng tử, Planck ắt hẳn phải là một nhà tư tưởng. Đối với ông, Chúa là nhu cầu tất yếu của cả tôn giáo lẫn khoa học. Ông nói: “Cả tôn giáo lẫn khoa học đều cần đến Đức tin vào Chúa để phụng sự cho hoạt động của mình, hơn nữa, tôn giáo cần có Chúa ngay từ lúc khởi đầu, khoa học cần đến Chúa vào lúc kết thúc toàn bộ tư duy. Đối với tôn giáo, Chúa là nền tảng, đối với khoa học, Chúa là đỉnh cao nhất của bất kỳ lý lẽ nào liên quan đến vũ trụ quan” (Both religion and science need for their activities the belief in God, and moreover God stands for the former in the beginning, and for the latter at the end of the whole thinking. For the former, God represents the basis, for the latter – the crown of any reasoning concerning the world-view).

8.Albert Einstein (1879-1955):

8Einstein nổi tiếng là người hay nhắc đến Chúa như Đấng Sáng tạo vũ trụ và tác giả của các định luật vũ trụ. Ông yêu Cái Đẹp và Cái Trật tự say đắm đến nỗi tin chắc rằng Chúa bao giờ cũng ngay ngắn rõ ràng mạch lạc đẹp đẽ, Chúa không thể chơi trò may rủi ú tim nước đôi lập lờ. Vì thế ông chống đối Nguyên lý Bất định đến cùng, và điều đó làm rạn nứt tình bạn vốn có giữa ông với Niels Bohr. Mặc dù Chúa của Einstein không phải là Chúa của Thiên Chúa giáo, nhưng ông cho rằng niềm tin vào Chúa của ông, Đấng Sáng tạo, là điều ắt phải có đối với một nhà khoa học. Thậm chí ông coi đó là một tôn giáo đích thực. “Khoa học không có tôn giáo là khoa học khập khiễng; tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng” (Science without religion is lame; Religion without science is blind). Hóa ra Einstein đã phát biểu một chân lý rõ ràng rằng khoa học và tôn giáo rất cần thiết có nhau, bổ sung cho nhau, thay vì loại trừ nhau như chủ nghĩa duy vật tuyên bố. Nói cách khác, Einstein đã mặc nhiên bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Ông tuyên bố: “Càng nghiên cứu khoa học tôi càng tin vào Chúa” (The more I study science, the more I believe in God).

9.Werner Heisenberg (1901-1976):

9Sau khi Einstein và Bohr mất, Heisenberg được tôn vinh như nhà vật lý số 1 của thế giới. Ông đã phạm sai lầm lớn về chính trị khi làm giám đốc chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Hitler. Có lẽ việc này để lại trong lòng ông một nỗi hối hận suốt đời. Theo những gì tôi biết, ông là người ngây thơ về chính trị, nhưng ông không phải kẻ ác. Đây là vấn đề thuộc về lịch sử, đáng để cho những ai yêu lịch sử tìm hiểu kỹ. Nhưng về triết học và vũ trụ quan, ông là người vô cùng sâu sắc. Ông nhắn nhủ các nhà khoa học rằng: “Ngụm nước đầu tiên từ cốc nước khoa học tự nhiên sẽ biến bạn thành một người vô thần, nhưng ở đáy cốc Chúa đang đợi bạn” (Der erste Trunk aus dem Becher der Naturwissenschaft macht atheistisch, aber auf dem Grund des Bechers wartet Gott). Đối chiếu câu nói này của Heisenberg với câu nói của Pasteur ở trên (mà tôi lấy làm tiêu chuẩn đo lường tri thức của các nhà khoa học), ta thấy hai câu nói giống nhau đến mức có thể nghĩ rằng “Heisenberg nhắc lại lời Pasteur chăng?”. Không! Đó là “tư tưởng lớn gặp nhau!” (Les grands esprits se rencontrent!)

10. Kurt Gödel (1906-1978):

10Toàn bộ bài viết mà độc giả đang đọc có thể xem như một bình luận về tư tưởng của Gödel. Có lẽ Gödel là nhà khoa học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thẳng thắn nhất, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất. Chúng ta đã thấy nhiều bậc tiền bối của Gödel có những suy nghĩ rất giống ông, điển hình là Blaise Pascal, hay sau này là Max Planck. Nhưng công lao và thiên tài của Gödel là ở chỗ ông đã biến tất cả những nhận định mang tính triết học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thành những định lý toán học không thể tranh cãi được. Thiết tưởng nếu không có Định lý Bất toàn của ông thì không biết những trường phái duy vật và vô thần như Hilbert sẽ còn làm mưa làm gió đến bao giờ. Bài báo “Gödel chứng minh Chúa hiện hữu (Gödel proved that God Exists)” trên PVHg’s Home ngày 17/09/2014 đã cung cấp cho độc giả một cái nhìn tương đối đầy đủ về vũ trụ quan và tư tưởng triết học và thần học của Gödel. Nhưng sau khi trình bầy 14 quan điểm triết học của Gödel (nội dung bác bỏ chủ nghĩa duy vật và khẳng định sự cần thiết của Đức tin) bài báo đã kết luận bằng lời của Thánh Thomas Aquinas rằng “Đối với người có đức tin, không cần có sự giải thích nào cả. Đối với người không có đức tin, chẳng có lời giải thích nào là đủ” (To one who has faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is possible). Nhận định đó thật chí lý.

Kết

Cuối thế kỷ 19, Friedrich Nietzsche tuyên bố: “Chúa đã chết!”. Tuyên bố này nổi tiếng đến nỗi được coi là cột mốc đánh dấu sự chuyển tiếp của nền văn minh nhân loại từ văn minh hữu thần sang văn minh vô thần, kéo dài hơn một thế kỷ rưỡi nay.

Gần đây Richard Dawkins, một môn đệ trung thành nhất và mạnh miệng nhất của chủ nghĩa Darwin, nhắc lại tuyên bố của Nietzsche dưới một dạng thức nhấn mạnh hơn: “Chúa không chết. Chúa ngay từ đầu đã không bao giờ sống!” (God is not dead. He was never alive in the first place).

Stephen Hawking cũng mạnh miệng không kém. Ông tuyên bố nhân dịp ra mắt cuốn “Grand Design” (Thiết kế Lớn) năm 2013: “Big Bang không cần Chúa” (Big Bang didn’t need God), và “Vì có một định luật như định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ hư không…” (Because there is a law such as gravity, the universe can and will create itself from nothing…).

Rất may, uy tín khoa học của những người như Nietzsche, Dawkins hoặc Hawking không thể so sánh với 10 nhân vật vĩ đại trong bảng danh sách nói trên. Vì thế sức thuyết phục kém. Tuy nhiên những ý kiến này giúp chúng ta chiêm nghiệm câu nói của Thánh Thomas Aquinas. Vậy toàn bộ câu chuyện của chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì?

Câu trả lời nằm trong ý kiến sau đây của Nicolas Tesla, một thiên tài kỹ thuật trong thế kỷ 20:

“Quà tặng về sức mạnh tinh thần đến từ Chúa, Đấng Thiêng liêng, và nếu chúng ta tập trung suy nghĩ của chúng ta vào chân lý đó, chúng ta sẽ trở nên hòa hợp với sức mạnh vĩ đại đó. Mẹ tôi dạy tôi tìm mọi chân lý trong Kinh Thánh” (The gift of mental power comes from God, Divine Being, and if we concentrate our minds on that truth, we become in tune with this great power. My mother had taught me to seek all truth in the Bible).

Và Kinh Thánh nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin

PVHg, Sydney 01/12/2015

CHÚ THÍCH:
[0] http://drjohnhspencer.com/materialism-is-false-kurt-godel/
[1] http://www.adherents.com/people/pm/Gregor_Mendel.html
[2] http://isomorphism.es/post/705308089/godspeaks

11 thoughts on “Gödel: Materialism is False! / Gödel: Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm!

  1. It’s an excellent scientific essay !
    Đây là một tiểu luận khoa học xuất sắc !
    Nhưng tôi cho rằng sẽ có rất ít người có đủ trình độ để hiểu một cách sâu sắc tiểu luận này.

    Thích

  2. Chúng ta không thể ngờ rằng cái thân tứ đại của mình, cái nhà, cái xe, con trâu, dãy núi, dòng sông…nói chung là vật chất chỉ là khái niệm, là cảm giác, không có thực chất. Những thứ vật chất đó kinh điển Phật giáo gọi là thế lưu bố tưởng tức là tưởng tượng đã được lưu truyền từ đời này qua đời khác đã thành phổ biến.
    Lý do vật chất không có thực chất, kinh điển PG nói rằng tất cả các pháp đều không có tự tính, nghĩa là vật chất cũng không có tự tính. Năm 1982 tại Paris, Alain Aspect đã áp dụng bất đẳng thức của John Bell trong thí nghiệm về liên kết lượng tử (quantum entanglement) chứng minh bằng toán học rằng những tính chất của hạt photon như vị trí, khối lượng, điện tích, số spin đều không sẵn có mà chỉ khi người khảo sát tiến hành đo đạc chúng mới xuất hiện, nghĩa là chính con người đã gán ghép những tính chất đặc trưng đó cho nó. Thí nghiệm khoa học này chứng minh một cách ngoạn mục câu nói trong kinh Hoa Nghiêm rằng “tất cả đều là do tâm tạo” (一切唯心造 nhất thiết duy tâm tạo). Tâm tức là Phật, cũng tức là Chúa. Video sau đây diễn giải đôi nét về thí nghiệm này.

    Thí nghiệm trên cũng như thí nghiệm nổi tiếng về hai khe hở dưới đây đã bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Vật chất không độc lập tồn tại :

    Cái nhìn của con người, hành vi của con người có tác dụng quyết định đối với sự hiện hữu của vật chất, điều đó đã quá rõ ràng.
    Vậy chủ nghĩa duy vật là sai lầm bởi vì vật chất không có thực chất, vật chất là do tâm tạo cũng có nghĩa là do Phật tánh, Chúa, Thượng Đế (tên gọi không quan trọng) tạo ra.
    La Thiếu Bình

    Thích

    • Chẳng nhẽ bài báo của anh PVH đã dẫn đến một người lẩm cẩm như cái phản hồi này ư. Quơ tất cả Phật tánh, Chúa, Thượng đế vào một rọ như vậy, thật là loạn chữ, loạn tôn giáo, chỉ nói leo mà chẳng hiểu gì các tôn giáo ấy cả. Thử va đầu vào cái xe đang chạy xem cái Tâm tạo của ngài Đa tôn giáo Duy lực thiền này đến đâu.

      Thích

  3. Pingback: Gödel: Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm! - Book Hunter Club

  4. Pingback: Đa chiều – Gödel: Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm! | CÓP NHẶT

  5. Pingback: Nhà toán học lớn nhất thế kỷ 20: “Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm” | Khoa học và Tu luyện

  6. Bài viết không dỡ, tôi cũng là một người chống lại chủ nghĩa duy vật, nhưng tôi không dám nói có chúa hay không có chúa, vì tôi không theo đạo chúa.
    Tôi có một vài điều thiết nghĩ nên góp ý với tác giả:
    1/ Tác giả chỉ dẫn lời của những nhà khoa học tin chúa, mà lại không dẫn lời của những nhà duy vật và lập luận của họ, đã vội kết luận họ ngoan cố, điều này đối với tôi không thuyết phục lắm, dù tôi cũng chống lại chủ nghĩa duy vật.
    2/ Tác giả rõ ràng có ý lái khoa học theo ý mính để thừa nhận “Chúa”, mà đã bỏ qua một vài điều. Đầu tiên tác giả nói Einstein vì tin Chúa nên sẵn sàng vứt bỏ tình bạn để tranh luận với Bohr, nhưng lại không nói vế sau rằng kết quả của cuộc tranh luận Cơ Học Lượng Tử này, người sai là Einstein, và cố nhiên Bohr là một người không tin vào chúa, vì khi Einstein nói: “Chúa không chơi súc sắc”, Bohr đã mạnh dạn bác bỏ: “Chúa chả làm gì cả!”. Thứ hai là ở vấn đề Heisenberg, tôi được biết trong một bài viết khác của tác giả về “chương trình chế tạo bom nguyên tử của Đức Quốc xã”, tác giả từng mạnh dạn nhắc đi nhắc lại Heisenberg từ đầu chí cuối trung thành với Hitler, và còn có nhiều tật xấu như ích kỷ, bảo thủ, không nghe góp ý dẫn tới thất bại; nhưng trong bài này tác giả là ca ngợi Heisenberg, còn nói ông hối hận vì giúp Hitler (?), hình như hơi mâu thuẫn, phải chăng tác giả nói vậy để cố tạo thêm uy tín cho nhà khoa học này, nhằm làm sáng danh Chúa? (tôi thừa nhận Heisenberg là một “người khổng lồ”, chỉ sau Einstein và Bohr, ông là cha đẻ của Nguyên lý bất định và Cơ học ma trận). Thứ ba, tác giả nói Passcal bảo rằng: “Người ta tin tôn giáo như sợ nó đúng”, điều này đúng là có. Nhưng cũng chính Passcal từng nói: “Sự yên lặng vĩnh cữu của vũ trụ làm tôi hoang mang lo lắng.” khi quan sát vũ trụ mênh mông. Passcal lo điều gì, nếu không phải là trong đầu ông đang hoài nghi về khả năng tồn tại của chúa? Về những luận điểm này, tôi thấy cũng không thấy thuyết phục.
    3/ Tác giả có đề cập đến Đức Phật Thích Ca, nói Ngài là bậc thầy vĩ đại, nhưng không biết tác giả có nghiên cứu kỹ Phật học không? Đức Phật hoàn toàn không thừa nhận sự tồn tại của Đấng Sáng Thế. Quan điểm của Phật giáo là quan hệ về nhân quả tuần hoàn, và sự hòa hợp không thể chia cắt của vạn vật, chính điều đó đã chi phối vũ trụ, chứ không phải là một Đấng Sáng Thế, và điều đó xuất phát từ vô thủy kéo dài đến vô chung, chứ chẳng phải do ai đặt ra cả. Điều này cá nhân tôi thấy chưa thỏa đáng.
    4/ Tôi thấy không phục tác giả ở một điểm, là đã quá coi thường Stephen Hawking. Ai cũng biết rằng hiện nay Hawking được xem như là nhà vật lý lý thuyết xuất sắc nhất thế giới. Đóng góp của ông cho nhân loại về bức xạ Hawking, hay điểm kỳ dị của lỗ đen, đều rất to lớn. Đúng là ông hiện nay không còn tin chúa nữa, nhưng trong quá khứ ông cũng đã từng rất tin vào đấng toàn năng khi phát biểu: “Tôi đến với vũ trụ là vì muốn tìm hiểu chân ý của Chúa!” Có lẽ thay vì chê bai ông thiếu đức tin, ta nên suy nghĩ xem vì lý do gì mà ông vứt bỏ tôn giáo đi như vậy, nếu không phải là vì ông cảm thấy giáo lý về nó đã không còn hợp với nghiên cứu của mình? Ta nên xem xét tất cả khía cạnh, chứ không phải đơn thuần chỉ đứng ở góc độ một tín độ của Chúa mà phê phán những kẻ thiếu đức tin, cần lắng nghe lý luận của họ. Nếu ta dẫn được những lý luận đó ra và phản bác được nó, thì tính đúng đắn của ta mới thuyết phục hơn, và Chúa cũng sáng danh hơn.
    5/ Ý kiến riêng của tôi, nhà khoa học giỏi không có nghĩa là luôn có quan điểm đúng. 10 nhà khoa học tác giả nêu có tiếng tăm thật, nhưng không phải chỉ vì danh tiếng và đức tin của họ mà ta lấy đó làm tiêu chuẩn để phán xét về Chúa được. Nên nhớ rằng Khổng Tử cũng từng thua tài hùng biện của một đứa trẻ. Dù 10 nhà khoa học nói thua một kẻ vô danh thì cũng không phải là không có khả năng.
    Đó là tất cả quan điểm của tôi, mong tác giả đọc và cho ý kiến! 🙂

    Đã thích bởi 1 người

    • Trả lời bạn Neil Nguyễn,
      Cám ơn bạn đã bày tỏ ý kiến một cách chân thành. Tôi xin chia sẻ với bạn bạn từng điểm:
      1/ Bạn nói “Tác giả chỉ dẫn lời của những nhà khoa học tin chúa, mà lại không dẫn lời của những nhà duy vật và lập luận của họ, đã vội kết luận họ ngoan cố,…”.
      Trả lời: Có 2 lý do:
      Một, trong thời đại hiện nay, các nhà khoa học vô thần tha hồ phát biểu ý kiến, họ có quá nhiều diễn đàn để nói, quan điểm của họ được phổ biến khắp nơi, tràn ngập trên sách vở chính thống. Vì thế không có gì phải lo họ bị thiệt thòi vì không được phát biểu trên trang mạng PVHg’s Home.
      Hai, để biết chủ nghĩa vô thần ngoan cố như thế nào, bạn hãy đọc loạt bài của tôi trên PVHg’s Home phê phán chủ nghĩa toán học hình thức và thuyết tiến hóa của Darwin. Trong một bài viết không thể nói hết được.
      2/ Bạn nói “Tác giả rõ ràng có ý lái khoa học theo ý mình để thừa nhận “Chúa”,…”
      Nếu bạn viết một tham luận nào đó, bạn có ý “lái” bài viết của bạn theo ý của bạn không? Đó là việc thường tình mà. Một bài viết mà không có định hướng rõ ràng, không thể hiện vũ trụ quan rõ ràng thì viết để làm gì? Bài viết của tôi rõ ràng không phải là mấy bài toán dạy học trò, mà là vấn đề triết học và tư tưởng. Vậy câu nói của bạn không sai về ý tứ, nhưng văn chương không “chuẩn mực” lắm. Tôi nghĩ rằng bạn nên viết như sau thì sẽ hoàn toàn hợp lý: “Tác giả rõ ràng có ý chứng minh rằng khoa học buộc chúng ta phải thừa nhận Đấng Sáng tạo”. Chữ “Chúa” tôi dùng trong bài ý nói Đáng Sáng tạo.
      3/ Bạn nhắc lại câu chuyện tranh luận giữa Einstein và Bohr và có ý trách tôi không nhắc đến chuyện Einstein “thua” và Bohr “thắng”, mặc dù Bohr có vẻ vô thần hơn Einstein… Một người ngây thơ sẽ nghĩ à ra thế, tức là trong “keo đấu” này, ông vô thần thắng ông tin Chúa… Bạn ơi, tôi hơi buồn cười về kiểu tư duy ngây thơ này. Tôi không bình luận thêm, mà chỉ nói nhỏ với bạn thế này: Nếu tôi có nhắc lại chuyện này ở đây thì chỉ có một ý duy nhất, rằng Einstein tin vào Đấng Sáng tạo, thế thôi. Còn chuyện 2 ông tranh luận ra sao, ai thắng ai thua, ý nghĩa thế nào, ta bàn ở chỗ khác, lúc khác. Bạn có vẻ muốn nói cho tôi và độc giả biết câu của Bohr rằng “Chúa chả làm gì cả!”. Ý của bạn là phải cho ông vô thần phát biểu ý kiến chứ… Thế là bạn xem một câu chuyện mà không nắm được cái hồn của câu chuyện. Cũng là chuyện Einstein-Bohr, khi thảo luận về tư tưởng vật lý, tôi sẽ “lái” câu chuyện vào chủ đề vật lý. Còn trong bài này, tôi chỉ có ý định “lái” câu chuyện vào chủ đề niềm tin vào Đấng Sáng tạo của Einstein mà thôi. Còn Bohr có phải vô thần hay không, tôi không dám kết luận. Tôi cho rằng kết luận như thế là liều mạng. Bohr sâu sắc hơn bạn tưởng đấy, nếu bạn nghĩ Bohr hoàn toàn vô thần thì tôi e rằng vội vã đấy. Tôi chưa có đủ tài liệu về tư tưởng tôn giáo của Bohr nên tôi tránh nói về tư tưởng tôn giáo của ông. Nhưng tôi biết ông là người vô cùng sâu sắc, chứ không ngớ ngẫn như mấy ông vô thần mà tôi biết đâu bạn ơi.
      4/ Về Heisenberg, tôi có 2 cột mốc nhận thức về ông:
      Năm 2005, tôi viết bài “Chương trình chế tạo bom nguyên tử của Hitler”, lúc ấy tôi chỉ biết Heisenberg là giám đốc chương trình chế tạo bom nguyên tử của Hitler, và tôi thấy ông là một nhà khoa học vô thần tội lỗi.
      Năm 2013, tôi viết bài “Phép Mầu”, sau khi tôi đã được tiếp xúc với những tài liệu về tư tưởng của ông. Ông đã rất ân hận về quá khứ phục vụ Hitler. Tôi thay đổi cách nhìn về ông. Tôi thấy những người biết tội lỗi của mình là những người đáng kính trọng. Bản thân mình có khi còn xấu xa hơn họ nhiều, vì mình không ý thức được tội lỗi của mình.
      5/ Bạn nói Passcal từng nói: “Sự yên lặng vĩnh cữu của vũ trụ làm tôi hoang mang lo lắng.”
      Bạn chép câu này ở đâu vậy. Đó là một bản dịch thiếu chính xác. Nguyên văn tiếng Pháp như sau: “Le silence eternel des ces espaces infinis m’effraie”. Tiếng Anh dịch ra là “The eternal silence of these infinite spaces frightens me”. Vậy phải dịch chính xác là “Sự yên lặng vĩnh cửu của vũ trụ làm tôi sợ hãi”. Sợ hãi cái gì? Sợ hãi cái vĩ đại của vũ trụ. Vũ trụ yên lặng đấy, nhưng nó bao la không cùng… nó làm cho những người có cảm xúc sâu sắc thấy khiếp sợ vì cái vĩ đại ấy… đó là cảm giác đầu tiên khi con người ý thức về vũ trụ dể từ đó đi tới ý thức về ĐẤNG VÔ CÙNG! Bạn có biết Đấng vô cùng là gì không? Nhưng qua ý kiến của bạn, tôi thấy bạn đã hiểu sai câu nói của Pascal. Bạn muốn hiểu 1 câu của Pascal, bạn nên đọc khoảng 100 câu của công. Ta phải hiểu cái TỔNG THỂ tư tưởng của ông mới hiểu rõ từng câu ông nói. Triết lý của Pascal ở tầm cao nhất của triết học, nên có những câu rất khó hiểu, dễ làm ta hiểu sai.
      6/ Bạn nói “Đức Phật hoàn toàn không thừa nhận sự tồn tại của Đấng Sáng Thế”
      Tôi e rằng bạn nói liều. Quả thật có một số người nói giống như bạn. Nhưng theo tôi biết thì Đức Phật không nhắc đến Thượng Đế chứ không phải Ngài bác bỏ sự hiện hữu của Thượng Đế. Để khỏi mất thì giờ về vấn đề này, bạn hãy tìm đọc bài “Thượng đế có hay không? Câu trả lời của Gautama Buddha” của cư sĩ Minh Đạt trên PVHg’s Home ngày 25/05/2014.
      7/ Tôi không dám coi thường Hawking về vật lý, tôi chỉ tiếc rằng triết học của ông hơi kém, và do ông không được mặc khải về tâm linh cho nên ông phát biểu nhiều khi quá chủ quan. Ngược lại về khoa học, tôi rất quý Hawking. Tôi đã dịch 2 bài báo lớn của ông, đăng trên các tạp chí khoa học ở VN rồi đấy. Bạn biết điều đó chưa? Nếu tôi coi thường ông thì tôi không bao giờ mất thì giờ dịch bài của ông. 2 bài báo đó rất hay, tư tưởng vật lý rất tuyệt vời, đúng hơn rất nhiều nhà vật lý khác hiện nay, và vì tôi thích thí và đánh giá cao nên tôi mới dịch chứ. Tôi còn quý Hawking vì cái tính rất THẬT của ông, ông rất thẳng thắn. Và bạn đừng ngạc nhiên nhé, tôi có thư trao đổi với ông ấy đấy. Vậy bạn nhận xét tôi coi thường ông ấy là hoàn toàn sai. 2 bài của ông ấy mà toi đã dịch và đã công bố trên báo chí, bạn đã đọc chưa? Bạn nên đọc đi, để hiểu tôi hơn, và hiểu Hawking hơn. Có trên PVHg’s Home đấy.
      8/ Tôi hoàn toàn đồng ý với bạn rằng nhà khoa học giỏi không có nghĩa là luôn có quan điểm đúng. 10 nhà khoa học mà tôi nêu lên là những người vừa có tài bậc nhất trong mọi thời đại và cũng đồng thời là những người có đầu óc triết học sâu sắc bậc nhất. Đối với Pascal, một nhà toán học thuần túy cũng chẳng khác gì nhiều so với một anh thợ thủ công. Tôi đặc biệt ngưỡng mộ những nhà khoa học có cái đầu triết học giỏi. Đối với tôi, vô thần là SAI và kém về nhận thức. Nếu bạn không tán thành điều đó thì giữa tôi và bạn có một khoảng cách rất xa. Tiếc quá!!!
      PVHg

      Đã thích bởi 1 người

      • Bác trả lời hay lắm! Có những nhà khoa học cho rằng mình vô thần nhưng có chắc là vô thần không hay đơn giản là họ đang “giận dỗi” với Đấng Sáng Tạo như Bohr “Chúa chả làm gì cả”
        Điều này làm cháu nhớ đến phim “God is not dead”. Sau nỗ lực khiến một cậu sinh viên phải từ bỏ niềm tin của mình vào Chúa, cuối cùng vị giáo sư phải thốt lên “Tôi ghét Chúa!”. Ông ấy vô tình đã thừa nhận sự tồn tại của Thượng Đế.

        Thích

  7. Kính gửi Bác Hưng!Theo cháu thì chỉ 1 định luật được mọi ng công nhận là định luật bảo toàn vật chất là đã phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa duy vật.”Các chất ko tự nhiên sinh ra ko tự nhiên mất đi mà nó chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác”
    Vậy tại sao tự dưng lại có vật chất và chỉ có vật chất như chủ nghĩ duy vật phát biểu?Chất đầu tiên tạo ra bằng cách nào?

    Thích

Bình luận về bài viết này