Câu chuyện Ngôn ngữ / The Story of Languanges

Abstract: French people say: “Tout mystère se trouve dans le langage” (All mystery is in the language). But is there a language which allows us to discover all mysteries? Do we have enough languages to completely and perfectly describe the world around? The following story of language attempts to give an answer. Pablo Picasso nói: “Nghệ thuật là một lời nói dối làm cho chúng ta nhận ra sự thật”. Niels Bohr: “Tất cả chúng ta đều bị treo lơ lửng trong ngôn ngữ”. Lão tử: “Đa ngôn sổ cùng, Bất như thủ trung”. Kurt Godel: “Càng suy nghĩ về ngôn ngữ tôi càng ngạc nhiên không biết người ta có bao giờ hiểu nhau được chút nào không”,… Dường như những người sâu sắc đều thấy ngôn ngữ không bao giờ đủ để mô tả sự thật…

Là một danh hoạ bậc nhất của thế kỷ 20, Pablo Picasso đồng thời mang dáng dấp của một nhà hiền triết khi ông nói: “Nghệ thuật là một lời nói dối làm cho chúng ta nhận ra sự thật” (Art is a lie that enables us to realize the truth). Nhận định này ẩn chứa nhiều tư tưởng sâu sắc về hội hoạ, nhưng đồng thời cũng gợi ý rằng hội hoạ là một dạng ngôn ngữ đặc biệt, cùng với các ngôn ngữ khác giúp cho chúng ta tiếp cận tới chân lý ngày càng sâu sắc hơn.

Ngôn ngữ của con người vô cùng đa dạng: tiếng nói, chữ viết, hình vẽ, âm nhạc, ký hiệu toán học, mô hình, biểu đồ, biểu tượng, điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, thậm chí cả sự im lặng hoặc giao tiếp bằng ngoại cảm,…Tất cả liên kết lại với nhau, tạo nên nền văn minh của nhân loại. Lịch sử văn minh chính là lịch sử phát triển và tiến hoá của ngôn ngữ. Chẳng thế mà người Pháp đã kết luận: “Mọi bí mật đều nằm trong ngôn ngữ” (Tout mystère se trouve dans le langage).

Kết luận trên có một hàm ý rất sâu xa. Nó làm cho chúng ta liên tưởng tới rất nhiều sự kiện ngôn ngữ thú vị. Chẳng hạn:

– Sự kiện phát hiện ra “phiến đá Rosetta”[1] (Rosetta Stone) – phiến đá giúp cho nhà ngôn ngữ học trứ danh người Pháp Jean Francois Champollion, năm 1822, giải mã được chữ tượng hình Ai-cập cổ đại, mở toang cánh cửa bí mật của nền văn minh sông Nile cho hậu thế khám phá.

– Sự kiện khám phá ra hệ thống ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European language) trong thế kỷ 19, giúp cho các nhà khoa học lịch sử khám phá ra cuộc di cư vĩ đại của người Aryan[2] từ mấy ngàn năm trước,…

Nhưng ngôn ngữ không chỉ là chiếc chìa khoá vàng trong việc giải mã các sự kiện lịch sử, văn hoá, mà còn rọi một ánh sáng vào những khoảng tối của nhận thức luận khoa học hiện đại.

Niels Bohr, một trong những nhà vật lý lỗi lạc và uyên thâm nhất thế kỷ 20, đã phải thốt lên chua chát: “Tất cả chúng ta đều bị treo lơ lửng trong ngôn ngữ” (We are all suspended in language), để mô tả tình trạng mâu thuẫn và bất định khi chúng ta cố mô tả thế giới lượng tử bằng một thứ ngôn ngữ không tương thích – ngôn ngữ của thế giới vĩ mô.

Trong toán học, Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness) của Kurt Godel cũng giáng một đòn chí tử vào tham vọng chứng minh tính hoàn hảo của toán học. Godel chỉ ra rằng mọi tham vọng tìm kiếm một hệ thống lý thuyết hoàn hảo đều rơi vào cãi bẫy của nghịch lý tự quy chiếu. Để thoát khỏi cái bẫy này, phải tìm đến một thứ siêu ngôn ngữ – một ngôn ngữ đứng bên ngoài hệ thống lý thuyết đang xem xét. Nhưng bản thân siêu ngôn ngữ cũng bất toàn, do đó không bao giờ có một hệ thống lý thuyết nào có thể đạt tới sự hoàn hảo.

Vì thế không có một ngôn ngữ nào có thể được coi là độc tôn, là “ông hoàng” trên con đường tìm kiếm chân lý. Chỉ có sự kết hợp nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, bổ sung cho nhau mới làm nên một bức tranh phong phú nhất, sát gần với sự thật nhất.

Để tiệm cận tới kết luận đó, trước hết phải thấy được những “chỗ yếu” của ngôn ngữ. Một trong những “chỗ yếu” đó là nghịch lý tự quy chiếu.

1. Nghịch lý tự quy chiếu:

Những ý kiến bầy tỏ, tuyên bố, phát biểu, trình bầy,… mang tính chất tự phán xét, tự đánh giá về chính bản thân mình được gọi là những nhận định tự quy chiếu (self-referential statements). Mọi nhận định tự quy chiếu đều chứa đựng mâu thuẫn logic nội tại, do đó sẽ dẫn tới nghịch lý được gọi là nghịch lý tự quy chiếu (self-referential paradoxes) – nghịch lý nẩy sinh khi một hệ thống tự phán xét về chính bản thân mình.

Thí dụ điển hình là “nghịch lý Cretan”, hay còn gọi là “nghịch lý kẻ nói dối”, nẩy sinh từ tuyên bố sau đây:

Ta là kẻ nói dối (I am a liar)!

Nếu “ta” là kẻ nói dối, suy ra “ta” đã nói thật. Nếu “ta” nói thật, suy ra “ta” là kẻ nói dối. Đằng nào cũng mâu thuẫn – mâu thuẫn là hệ quả logic tất yếu của một hệ tự quy chiếu!

Nghịch lý kẻ nói dối do Epimenides, một nhà thơ kiêm triết gia người Cretan (người đảo Crete thuộc Hy Lạp), thế kỷ 7-6 trước công nguyên, tìm ra. Nghịch lý này tồn tại trong suốt hơn 2500 năm chỉ như một trò chơi logic ngôn ngữ, nhưng đến đầu thế kỷ 20 nó bất ngờ tìm thấy những người “bạn đồng hành” trong logic toán học. “Người bạn” nổi tiếng nhất là “nghịch lý Russell” – nghịch lý trong lý thuyết tập hợp do Bertrand Russell tìm ra, dẫn tới cuộc khủng hoảng chưa từng có trong nền tảng toán học[3].

Russell vốn nổi tiếng là một nhà hoạt động xã hội có trái tim nồng nàn, từng đoạt Giải Nobel văn chương năm 1950, hai lần bị nhà nước Anh cho vào tù vì những hoạt động chống chiến tranh, nhưng nổi tiếng nhất vì những công trình logic toán, đặc biệt vì nghịch lý Russell – một cảnh báo đối với lòng “cả tin” xưa nay cho rằng toán học là một hệ logic tuyệt đối phi mâu thuẫn.

Đây là nghịch lý nghiêm trọng nhất trong các nghịch lý, vì nó không chỉ làm lung lay lâu đài toán học – lâu đài xưa này được coi là kiên cố vững chắc nhất trong khoa học – mà còn gợi ý rằng vũ trụ có thể chứa đựng những mâu thuẫn ngay từ trong bản chất của nó.

Nếu nghịch lý Russell chưa đủ mạnh để hạ bệ thói tự phụ trong toán học thì năm 1931, Định lý Godel ra đời, giáng một đòn chí tử vào tham vọng tìm kiếm một hệ thống toán học tuyệt đối hoàn hảo (tuyệt đối đầy đủ và phi mâu thuẫn). Hệ thống này được mệnh danh là “siêu toán học” (metamathematics), vì nó định dùng toán học để chứng minh tính đầy đủ và phi mâu thuẫn của chính toán học. Nói cách khác, siêu toán học chính là một hệ tự quy chiếu, và ắt phải dẫn tới mâu thuẫn. Nhưng toán học không chấp nhận mâu thuẫn, vậy siêu toán học không thể thành công. Tham vọng tìm kiếm siêu toán học là “bất khả” (impossible) và không tưởng (utopian). Đó là bài học lớn cho toàn bộ khoa học.

Câu hỏi đặt ra là: Có thể tránh khỏi nghịch lý tự quy chiếu hay không?

Câu trả lời tuỳ thuộc vào chỗ có tồn tại một siêu ngôn ngữ (metalanguage) đối với tầng ngôn ngữ đang sử dụng hay không.

2. Siêu ngôn ngữ và quy luật cơ bản của nhận thức:

Siêu ngôn ngữ là một ngôn ngữ dùng để nói về một ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, dùng tiếng Việt để nói về tiếng Anh thì tiếng Việt được coi là một siêu ngôn ngữ của tiếng Anh. Bất kỳ một ngôn ngữ nào cũng có thể trở thành siêu ngôn ngữ đối với một ngôn ngữ khác. Siêu ngôn ngữ có thể có nhiều tầng, nhiều lớp. Thí dụ dùng tiếng Việt để phân tích một tài liệu tiếng Anh bàn về tiếng Hebrew, thì tiếng Việt sẽ là siêu siêu ngôn ngữ đối với tiếng Hebrew. Các tầng siêu ngôn ngữ tạo thành một hệ thống thang bậc siêu ngôn ngữ (hierachy of metalanguages) kéo dài vô hạn.

Từ điển Anh-Việt là một tài liệu siêu ngôn ngữ, vì nó dùng tiếng Việt để giải thích tiếng Anh. Đa số người mới học tiếng Anh đều ưa dùng từ điển Anh-Việt thay vì từ điển Anh-Anh. Điều đó hoàn toàn tự nhiên, vì quy luật cơ bản của nhận thức chỉ ra rằng nhận thức phải đi từ cái đã biết đến cái chưa biết.

Người mới học tiếng Anh sẽ gặp khó khăn lớn nếu sử dụng từ điển Anh-Anh mà không có thêm bất kỳ một sự giải thích hỗ trợ nào khác (không có bất kỳ một thứ siêu ngôn ngữ nào khác để phân tích ý nghĩa trong tiếng Anh). Dưới con mắt của logic nhận thức, từ điển Anh-Anh là một thứ ngôn ngữ tự mình nói về mình – một dạng nhận thức tự quy chiếu – do đó nó sẽ tạo ra một cái ngưỡng mà người mới học tiếng Anh không thể vượt qua. Tuy nhiên có thể vượt qua ngưỡng này bằng cách sử dụng các dạng siêu ngôn ngữ của tiếng Anh, chẳng hạn như sự giảng giải bổ trợ bằng tiếng Việt của thầy giáo hoặc bạn bè, hình ảnh minh hoạ, cử chỉ điệu bộ bằng chân tay, ánh mắt, khoé miệng của người giảng giải, v.v… Tất cả những cách bổ trợ này đều là những dạng siêu ngôn ngữ tuyệt vời đối với mọi thứ ngoại ngữ.

Chú ý rằng trẻ em có thể tiếp thu song ngữ một cách tự nhiên, không dùng ngôn ngữ này như một siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ kia. Những trường hợp này gọi là “người có song ngữ tự nhiên” (bilingual). Chẳng hạn một em bé Việt Nam sinh ra và lớn lên ở Úc, khi đó cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh đều là ngôn ngữ tự nhiên: tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ, tiếng Anh là ngôn ngữ bản địa. Trong thực tế tại Úc, tôi đã chứng kiến một em bé “trilingual”, tức là có 3 ngôn ngữ tự nhiên: tiếng Pháp vì bố là người Bỉ, tiếng Nhật vì mẹ là người Nhật, tiếng Anh là tiếng bản địa. Nếu có một siêu ngôn ngữ trong trường hợp này thì đó là cử chỉ, ánh mắt, dấu hiệu, hình ảnh,… do cha mẹ em hoặc thầy cô giáo, bạn bè ở nhà trường tác động đến em trong khi nói chuyện với em. Thí dụ mẹ em vừa nói vừa chỉ vào con mèo để em hiểu khái niệm “con mèo”, thầy cô giáo vừa nói vừa chỉ vào cái “table” để em hiểu khái niệm “table”. Khi đó hình ảnh con mèo hay cái bàn đều đóng vai trò siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ thông thường.

Alfred Tarski, một nhà toán học Ba lan xuất sắc, từ lâu đã nhấn mạnh rằng muốn định rõ giới hạn của các tầng nhận thức, cần phải phân biệt rõ ranh giới giữa ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ. Trong toán học, sự lẫn lộn giữa ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ đã từng là nguyên nhân dẫn tới sai lầm trong định hướng nghiên cứu và giảng dạy. Chẳng hạn, giữa thế kỷ 20 nổi lên trường phái Bourbaki, với sự ra đời của hàng loạt công trình đồ sộ viết lại toán bộ toán học dựa trên cái nền logic và tập hợp. Vào thời ấy, Bourbaki được cả thế giới ngưỡng mộ và tôn sùng như Euclid của thế kỷ 20. Thực chất đây là sự tiếp tục chương trình Hilbert, với niềm tin tạo ra siêu toán học, bất chấp Định lý Godel. Chủ nghĩa Bourbaki dẫn tới hệ quả là sự ra đời của trào lưu Toán học Mới ở trường phổ thông – một bước thụt lùi nghiêm trọng của nền giáo dục toàn cầu trong những thập kỷ 1960-1970. Cuối thế kỷ 20, với sự thức tỉnh về ý nghĩa của Định lý Godel, các nhà toán học đã dần dần từ bỏ chủ nghĩa Bourbaki để trở về với toán học hiện thực. Ngày nay hầu như không còn ai tiếp tục con đường Bourbaki nữa. Đáng tiếc là nhiều nhà toán học và giáo dục không ý thức được ý nghĩa của bài học này.

3. Bài học của siêu toán học:

Chúng ta đã biết siêu toán học không tồn tại – ngôn ngữ toán học cũng giống như bất kỳ một dạng ngôn ngữ nào khác, có những giới hạn không thể vượt qua.

Niels Bohr có lẽ là người hiểu rõ hơn ai hết về giới hạn của ngôn ngữ khi ông tranh cãi quyết liệt với Albert Einstein về tính hư ảo và bất định của thế giới lượng tử. Dường như càng cố mô tả sự vật một cách chính xác thì lại càng rơi vào tình trạng bất định, vì không bao giờ có thể đạt tới sự mô tả cuối cùng mà không cần có thêm bất kỳ một sự giải thích nào khác – không bao giờ chúng ta có đủ từ ngữ để mô tả sự vật một cách tuyệt đối chính xác. Mọi cố gắng chính xác hoá tuyệt đối một khái niệm đều là bất khả. Nhiều nhà toán học từng nghĩ rằng họ có thể đạt tới một lý lẽ tuyệt đối chính xác nhờ logic và tập hợp, nhưng các công trình của Russell và Godel đã chỉ ra rằng đó là một ý nghĩ ngây thơ, ảo tưởng.

Chẳng hạn, hãy thử đưa ra một định nghĩa cho khái niệm “trò chơi” (game), chúng ta sẽ nhanh chóng thấy rằng định nghĩa đó không chính xác. Thí dụ Từ điển The Free Dictionary định nghĩa “game” (trò chơi) là “một hoạt động mang lại sự giải trí và thoải mái” (an activity providing entertainment or amusement). Ngay lập tức có thể hỏi: nghe nhạc có thể gọi là một “trò chơi” được không? Vậy xem ra mỗi định nghĩa chỉ có thể nói lên một khía cạnh nào đó của sự thật mà thôi. Một định nghĩa càng mô tả được nhiều khía cạnh của sự vật thì càng gần với sự thật hơn, nhưng sẽ không bao giờ đạt tới chính bản thân sự thật đó. Nói cách khác, bản chất của ngôn ngữ là hạn chế, khả năng diễn đạt và mô tả sự thật bằng ngôn ngữ là có giới hạn.

Đến đây có thể hiểu vì sao cuộc tranh cãi về hiện thực lượng tử hoặc cuộc tranh cãi về nền tảng của toán học rốt cuộc lại quy về vấn đề hạn chế của ngôn ngữ.

Nếu ngôn ngữ không bao giờ đủ thì cái gì giúp chúng ta nhận chân sự vật?

Đó là trực giác – trực giác giúp chúng ta cảm nhận được cái thần của sự vật ẩn đằng sau từ ngữ, thay vì chính bản thân từ ngữ. Trong bản dịch cuốn “Đạo Đức Kinh”[4] của Lão tử, học giả Nguyễn Duy Cần phân tích: “Học thuyết của Lão tử không phải là thật khó hiểu nếu ta quan niệm nó bằng trực giác. Sự khó khăn của nó là ở chỗ đem ra mà bày giải… Lão tử há đã chẳng nói: Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri. Đem nó mà giảng giải, bằng những danh từ của giới nhị nguyên thì thật là vô cùng hiểm trở … Danh từ, bất luận để ám chỉ vật gì, đều có cái nghĩa hạn định của nó, cho nên không thể nào dùng một tiếng gì trong giới nhị nguyên tương đối để trỏ vào cái lẽ tuyệt đối thường tồn và bất biến”. Đó là lý do vì sao các luận thuyết Đông phương cổ đại thường kiệm lời, đòi hỏi người ta phải vận dụng trực giác để hiểu.

Trong khi đó, nền văn minh hiện đại lại thiên về phân tích logic “chẻ hoe sợi tóc”, ngõ hầu tìm ra chân lý cuối cùng, bất chấp giới hạn của nhận thức. Một trong những điển hình cho tinh thần bất chấp là Khoa học về trí thông minh nhân tạo (AI-Artificial Intelligence).

Hans Moravec, chuyên gia robot của Viện Robotics thuộc Đại học Carnegie Mellon, tuyên bố thẳng thừng rằng đến năm 2050 sẽ ra đời những robot thông minh như con người! Tư tưởng này kích thích sáng tạo công nghệ, cho ra đời những siêu phẩm ngày càng kỳ lạ hơn. Nhưng kèm theo những tiến bộ đó là sự hạ thấp giá trị con người, hạ thấp tính người trong xã hội hiện đại. Hệ quả tiêu cực này xuất phát từ chính những hiểu biết sai lầm về con người – bản thân việc tuyên bố sẽ chế tạo ra những sản phẩm thông minh như con người đã nói lên rằng tuyên bố đó không hiểu gì về con người.

Nếu con người thuần tuý chỉ là một sinh vật cao cấp nhất trong bậc thang tiến hoá của sinh vật – người là hậu duệ của khỉ – thì có thể kết luận computer hiện nay đã thông minh hơn con người, vì năm 1997, máy tính Deep Blue đã đánh thắng vua cờ Garry Kasparov. Nhưng chính sự kiện động trời này đã thúc đẩy Douglas Hofstadter, một trong những chuyên gia AI giỏi nhất hiện nay, xác định lại vị trí của con người: “Khi một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình hoá thì người ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư duy thực sự”[5].

Thật vậy, chúng ta còn biết quá ít về bản thân mình, và có lẽ sẽ không bao giờ biết đầy đủ, vậy cớ gì chúng ta có thể tạo ra những sản phẩm thông minh như chúng ta? Nhận định này dựa trên quan điểm cho rằng mọi hiểu biết về con người đều là sản phẩm của chính bộ não. Nói cách khác, mọi nghiên cứu về bộ não đều là những hệ tự quy chiếu, và do đó sẽ không bao giờ đầy đủ. Nếu hiểu biết về bộ não không đầy đủ thì làm sao có thể chế tạo ra một sản phẩm giống bộ não? Tham vọng chế tạo ra những sản phẩm thông minh như con người sẽ càng trở thành điên rồ hơn nếu ta hướng câu chuyện sang lĩnh vực “nhận thức mềm” – nhận thức văn chương nghệ thuật và khoa học xã hội.

4. Nhận thức văn chương, nghệ thuật và khoa học xã hội:

Nếu gọi nhận thức của khoa học tự nhiên là “nhận thức cứng” thì nhận thức của văn chương, nghệ thuật và khoa học xã hội là “nhận thức mềm”. Trong nhận thức mềm chúng ta cũng thường xuyên sử dụng cả ngôn ngữ lẫn siêu ngôn ngữ. Nhưng dường như sự lẫn lộn giữa ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ ở đây nếu có, cũng chẳng gây nên sự cố gì nghiêm trọng. Không những thế, việc sử dụng cùng lúc ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ còn làm cho nhận thức mềm trở nên phong phú hơn, “mềm hơn”, kích thích tư duy nhiều hơn. Tại sao vậy ?

Vì nhận thức mềm không áp dụng suy luận logic máy móc như nhận thức cứng. Nhận thức mềm không gán cho chân lý các giá trị cứng nhắc là 1 (đúng) và 0 (sai). Khái niệm “đúng/sai” trong nhận thức mềm biến thiên một cách tương đối trong khoảng từ 0 đến 1. Thậm chí trong nhận thức mềm, chân lý không thể số hoá. Việc số hoá hình thể phụ nữ trong các cuộc thi hoa hậu là một việc làm phản nhân văn, phản lại Cái Đẹp. Không còn gì ấu trĩ hơn chủ trương số hoá Cái Đẹp. Những người tin vào các số đo để tìm ra tiêu chuẩn của Cái Đẹp là những người không hiểu gì về Cái Đẹp. Tương tự như dùng các chỉ số IQ để đo trí thông minh là không hiểu gì về trí thông minh. Cái Đẹp và trí thông minh là những giá trị cao quý và sâu sắc gấp vạn lần so với những gì có thể số hoá.

Nhận thức mềm có bậc tự do cao hơn rất nhiều so với nhận thức cứng. Bậc tự do của một dạng nhận thức nói lên mức độ phóng khoáng của dạng nhận thức đó. Dạng nhận thức có bậc tự do thấp nhất có lẽ là toán học, bởi ở đó không có chỗ cho sự mập mờ, đa nghĩa. Tranh Picasso có lẽ có độ phóng khoáng rất cao, cao đến mức hình ảnh trong tranh của ông méo mó như một “lời nói dối”. Vậy mà cái méo mó ấy lại giúp chúng ta nhận chân sự thật, nếu chúng ta có trực giác tốt và được giáo dục tốt để cảm nhận được sự thật ẩn đẳng sau “lời nói dối” ấy.

Không tồn tại một dạng nhận thức nào có bậc tự do bằng 0. Siêu toán học có tham vọng tìm ra một hệ logic chặt chẽ đến mức có bậc tự do bằng 0, nhưng Định lý Godel chứng minh rằng hệ logic đó không tồn tại.

Ngược lại cũng không tồn tại một dạng nhận thức nào có bậc tự do bằng 1. Hội hoạ hiện đại có bậc tự do cực kỳ lớn, có thể gần 1 tuỳ ý, nhưng không bao giờ bằng 1, vì bất kể một ngôn ngữ nào dù phóng khoáng đến mấy cũng không thể không có những niêm luật hoặc quy tắc tối thiểu.

Mặt khác nhận thức mềm sử dụng một hệ thống siêu ngôn ngữ rất phong phú. Chẳng hạn nếu nghe ai đó tuyên bố “Ta là kẻ nói dối” thì nhận thức mềm không bắt bẻ câu nói đó theo một chu trình logic khép kín của Epimenides, mà sẽ đánh giá mức độ tin cậy của lời nói thông qua ngữ cảnh, tâm địa của người nói, vẻ mặt, ánh mắt, cử chỉ bộ dạng của anh ta, v.v., tức là sử dụng một loạt các siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ thông thường để tiếp cận sự thật. Vì thế sẽ không xuất hiện nghịch lý và có khả năng mô tả sự thật một cách phong phú nhất.

Khi đọc tác phẩm “Tiếng Việt, người Việt, văn Việt” của GS Cao Xuân Hạo, một tác phẩm dùng tiếng Việt để phân tích mổ xẻ tiếng Việt, tức là một tác phẩm tự quy chiếu, nhưng tôi không thấy một mâu thuẫn nào nẩy sinh, ngược lại lý lẽ trong đó rất sắc sảo, thú vị và thuyết phục. Lý do vì khi đọc một tác phẩm văn chương hoặc xã hội học, chúng ta sử dụng mọi liên tưởng, tức là sử dụng mọi siêu ngôn ngữ có thể có, trong đó trực giác là thứ siêu ngôn ngữ cao cấp nhất, do đó có thể tóm bắt được cái thần của con chữ, thần của câu nói, thay vì “dò từng câu đếm từng chữ” theo kiểu logic máy móc như computer. Nói cách khác khi đối diện với một câu nói, ta phải tóm bắt ý nghĩa toàn thể của câu nói đó ngay lập tức. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc đọc các tài liệu tiếng Việt, vì bậc tự do trong tiếng Việt rất cao. Tiếng Việt không tuân thủ các quy tắc ngữ pháp chặt chẽ như các ngôn ngữ Tây phương. Đặc điểm này cũng biểu lộ rất rõ trong âm nhạc Việt Nam truyền thống. Âm nhạc truyền thống Việt Nam có độ “lơi” rất cao. Các nghệ sĩ khi trình diễn phải ăn ý với nhau chủ yếu bằng cảm xúc ngẫu hứng, thay vì tuân theo những tổng phổ chặt chẽ như âm nhạc Tây phương. Việc “giao hưởng hoá” âm nhạc truyền thống Việt Nam một mặt có thể nâng âm nhạc VN truyền thống lên một tầm cao mới, dễ hoà nhập với dòng chảy văn hoá thế giới hơn, nhưng đồng thời cũng có thể làm giảm bớt tính truyền thống Việt Nam.

Có lẽ thơ Hồ Xuân Hương là một loại ngôn ngữ có bậc tự do cao nhất, mặc dù thơ của bà là thơ cổ điển, tuân thủ các niêm luật chặt chẽ về vần điệu. Bậc tự do này chủ yếu phụ thuộc vào việc lựa chọn từ ngữ. Hầu như mọi từ ngữ của bà đều đa nghĩa, tạo nên cái hóm hỉnh trác tuyệt mà không dễ gì một ngôn ngữ nào khác có thể bắt kịp.

Bậc tự do của ngôn ngữ là cái mà computer không bao giờ theo kịp con người. Đó là điều mà những chuyên gia AI như Hans Moravec, dù giỏi tính toán đến mấy, cũng không hiểu và không muốn hiểu. Sẽ là chuyện nực cười nếu chúng ta trông đợi vào một computer viết văn, một computer sáng tạo nên một Serenade… Chúng ta có thể thừa nhận computer tài giỏi vì đã đánh thắng vua cờ Kasparov hoặc có thể làm đủ mọi chuyện kinh thiên động địa khác, nhưng vĩnh viễn computer sẽ chỉ là “một gã phàm phu tục tử” vì không thể rung động với thơ Hồ Xuân Hương!

Đó là chỗ khác nhau cơ bản giữa nhận thức mềm với nhận thức cứng.

Bộ não của con người chứa cả nhận thức mềm lẫn nhận thức cứng. Nhận thức mang tính người nhiều nhất là nhận thức mềm, thay vì nhận thức cứng như nền giáo dục hiện nay lầm tưởng. Sự lầm tưởng này vô cùng tai hại, bởi nó dẫn tới một nền giáo dục thiên về nhồi nhét kiến thức, thay vì đánh thức tâm trí học trò, và dẫn tới một xã hội thiên về chạy đua sức mạnh vật chất, thay vì chăm lo đời sống nhân văn.

5. Ngôn ngữ, một sân khấu mở:

Câu chuyện về ngôn ngữ là câu chuyện về giới hạn của nhận thức. Nhận thức có khát vọng là đi đến cùng kỳ lý. Nhưng ngay từ thế kỷ 18, Immanuel Kant, nhà triết học lỗi lạc người Đức, đã nói: “Câu trả lời làm dấy lên những câu hỏi mới”. Siêu toán học muốn đi đến cùng kỳ lý của toán học nhưng đã thất bại. Lý thuyết về mọi thứ (Theory of Everything) cũng đang muốn đi đến cùng kỳ lý của vật lý, nhưng Stephen Hawking đã đặt câu hỏi: “Liệu chúng ta có thể đi bao xa trong việc tìm kiếm sự hiểu biết và tri thức?”. Rồi cũng chính ông đã trả lời: “Bản thân chúng ta lẫn lý thuyết của chúng ta là một bộ phận của vũ trụ, vì thế lý thuyết của chúng ta là một hệ tự quy chiếu, do đó nó sẽ không đầy đủ hoặc mâu thuẫn, hoặc vừa không đầy đủ vừa mâu thuẫn[6].

Nếu nhìn toàn bộ nền văn minh như một sân khấu vĩ đại của ngôn ngữ thì sân khấu này luôn luôn mở, vì ngôn ngữ của con người không thể chấp nhận bất kỳ một trói buộc nào cả, như David Peat đã gợi ý trong cuốn “Từ xác định tới bất định”[7]:

“…tính xác định của ngôn ngữ học là một trong số những ảo tưởng của con người đầu thế kỷ 20 …Chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn tránh khỏi tính mơ hồ nhập nhằng trong khi nói. Chúng ta không thể trói buộc thế giới vào từ ngữ. Nhưng rồi từ ngữ lại có rất nhiều thứ để cung cấp cho chúng ta, và cuộc sống của chúng ta sẽ phong phú hơn rất nhiều khi ngôn ngữ không bị bó vào trong một cái áo dành cho người điên[8]”.

PVHg, Sydney 07.07.2012


[1] Phiến đá cổ do một binh sĩ trong đoàn quân viễn chinh của Napoléon tại Ai cập tìm thấy năm 1799 tại Rosetta (Rashid), Ai cập, trên đó được khắc một bản văn bằng 3 thứ chữ: chữ tượng hình Ai cập cổ đại (hieroglyphic), chữ Ai cập cổ đại dạng giản lược (demotic), chữ Hy Lạp cổ. Các nhà khoa học đã lao vào giải mã chữ hieroglyphic nhưng thất bại, phải đợi mãi tới năm 1822 mới thành công, nhờ công lao của Jean Francois Champollion.

[2] Xem “Lịch sứ ít được biết về Swastika”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc Tháng 03.2011 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ ; https://viethungpham.wordpress.com/

[3] Xem “Lời sám hối của một nhà toán học hình thức”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc Tháng 05.2009 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ ; https://viethungpham.wordpress.com/

[4] “Lão tử, Đạo Đức Kinh”, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú, NXB Văn học 2001

[5] Xem loạt bài “Đi tìm bản chất đích thực của con người”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc từ Tháng 06.2011 đến 09.2011 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ , https://viethungpham.wordpress.com/

[6] Xem “Về bài giảng của Stephen Hawking: Godel và sự kết thúc của vật lý”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc số Tết Nhâm Thìn 2012 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ ; https://viethungpham.wordpress.com/

[7] From Certainty to Uncertainty, David Peat, bản dịch “Từ xác định tới bất định” của Phạm Việt Hưng, NXB Tri Thức 2011.

[8] Áo có hai ống tay đủ dài để có thể trói buộc hai tay lại (chú thích của ND).

25 thoughts on “Câu chuyện Ngôn ngữ / The Story of Languanges

  1. Phần lớn chúng ta tư duy theo kiểu tuyến tính, đơn biến như kiểu cơ học cổ điển Newton – thứ cơ học dành cho vật thể vĩ mô. Trong khi đó sự vật và hiện tượng xảy ra theo quy luật phi tuyến tính và đa biến (nếu không muốn nói là vô số biến). Do đó nhận thức của chúng ta luôn ở trong trạng thái bất định. Không tồn tại một thứ toán học nào có thể mô tả được sự phức tạp đó của hiện thực.
    Khoa học vật lý dù có hiện đại đến mấy cũng không bao giờ có thể hiểu được các vấn đề về tâm linh con người.

    Thích

    • Cám ơn anh Thanh. Tôi tuyệt đối tán thành ý kiến của anh. Nhưng thưa anh, đáng tiếc là nhiều người không hiểu điều đó. Do đó nền văn minh hiện đại ngày càng lao theo con đường vật chất thuần tuý, đánh mất các giá trị nhân văn. PVHg

      Thích

  2. Thưa Giáo sư, đã từ lâu tôi trăn trở về vấn đề này. Toán học kèm với nó là sự số hóa bên cạnh những cái văn minh thì cũng nảy sinh nhiều hệ lụy từ việc số hóa một cách thuần túy. Sự đa biến, đa chiều của các sự vật hiện tượng trong thực tế khó có thứ toán học nào có thể mô tả nổi.

    Tuy nhiên, đánh giá sự vật hiện tượng mà bằng cảm tính thì lại quá nguy hiểm. Nó phụ thuộc vào nhãn quan, vào tầm hiểu biết và cả cái Tâm của họ.

    Sự giới hạn của nhận thức nhưng lại dùng nó để điều khiển một Xã hội hỗn loạn, phức tạp lại cần sự số hóa..để tạm gọi là khách quan. cái vòng luẩn đó phải chăng lại là nghịch lý thưa Giáo sư?

    Thích

    • Bạn Yến Nhi thân mến,
      Điều bạn nói chính là sự dao động của con lắc vũ trụ hay con lắc xã hội. Dao động đó biến thiên qua vị trí trung hoà, nhưng cũng luôn luôn hướng tới thái cực để rồi “thái tắc biến” mới quay về trung hoà. Trung hoà rồi lại thái quá. Chu trình điều hoà cứ thế tiếp diễn mãi mãi. Hiện nay có nhiều dấu hiệu để thấy xã hội đang chuyển động tới thái cực vật chất thô thiển – mọi giá trị đều được quy thành con số, điều đó huỷ hoại giá trị cao quý của tâm linh. Chẳng hạn Cái Đẹp của phụ nữ được quy thành số đo các vòng 1, 2, 3, thật là lố bịch hết chỗ nói. Trí tuệ thì được đo bằng IQ, thật là ấu trĩ hết chỗ nói, uy tín thì được đo bằng bằng cấp, thật là dốt nát hết chỗ nói. Xu hướng này không bỗng dưng xuất hiện – nó là hệ quả của niềm tin vào khoa học, vào toán học, tưởng rằng khoa học là Chúa, tưởng rằng khoa học có thể “giải mã” được mọi sự thật. Thế kỷ 18, 19, 20 đã hạ bệ Chúa, hạ bệ mọi tôn giáo để tôn sùng những vị “chúa” mới. Một trong những vị chúa mới là khoa học. Nhưng vị chúa này chỉ giúp con người khám phá thế giới vật chất thôi, không chinh phục được tâm linh con người, thậm chí nó huỷ hoại tâm linh. Trong con mắt của Blaise Pascal thì tâm linh mới là phần người NGƯỜI nhất. Tôi cũng tin như vậy. “Được cả thế gian mà đánh mất linh hồn thì ích gì”, đó là một câu trong Kinh Thánh. Giá như khoa học phát triển nhưng loài người biết khiêm tốn – biết rằng “cái mình biết thì ít ỏi vô cùng, cái mình không biết thì mênh mông” (Ce que nous savons est peu de choses, ce que nous ignorons est immense) như Pierre Simon Laplace đã nói, để từ đó tu sửa bản thân, bớt tham lam tranh cướp, bớt kiêu căng vô minh… thì xã hội mới tiến lên văn minh thực sự được. Nhưng thực tế cho thấy sự phát triển của khoa học và công nghệ dường như tỷ lệ nghịch với đạo đức và văn hoá. Bạn lo rằng sự đánh giá sự vật hiện tượng bằng cảm tính sẽ nguy hiểm vì nó phụ thuộc vào tầm hiểu biết và cái Tâm của người lãnh đạo, vì thế cần phải có sự “số hoá” để đảm bảo tính khách quan. Vậy xin bạn đọc loạt bài “Đi tìm bản chất đích thực của con người” và “Luận về Thiện/Ác” trên Khoa học & Tổ quốc 2011 hoặc trên Vietsciences http://vietsciences.free.fr/
      hoặc PhamVietHung’s Home: https://viethungpham.wordpress.com/
      để thấy có thể số hoá con người hay không, và cái gì thực sự hướng dẫn con người khám phá ra chân lý.
      Cám ơn ban Yến Nhi rất nhiều.
      PVHg

      Thích

  3. Kính gửi Anh Phạm Việt Hưng.

    Đọc các Bài viết của anh, tôi luôn thấy trong đó là một Tấm lòng, một Tình Yêu, một Trái Tim với Giáo dục Việt Nam.

    Tôi cũng thấy như anh, Giáo dục VN rất cần đến cái ĐÓ. Nó không cần những con số, nó không cần những chỉ tiêu, nó càng không cần Thành tích, nó không cần năm nay đã tiến bộ hơn năm trước, đã tiến bộ nhiều hơn những năm trước,… Có tiến bộ nhiều hơn những năm trước, nhưng bao nhiêu Thế hệ trẻ đã bị bỏ hoang sự sáng tạo, bao nhiêu Tâm hồn đã bị méo mó vì sư hình thức,… Nó rất cần những Tấm lòng, những Tình yêu, những Trái Tim vì Thế hệ trẻ, vì sư Tự do phát triển và sáng tạo. Tất cả phải bắt đầu từ đây trước, phải bắt đầu từ Trái Tim, từ Tình Yêu. Không thể bất cứ một Lý do nào khác, không thể vì Thành tích, không thể vì ổn định bộ máy, không thể vì quyền lợi không phải của lớp trẻ… Vì Những cái khác sẽ chỉ là Giáo điều, sẽ chỉ là Tự Lừa giối, sẽ chỉ là ngây thơ và bị động để sự việc Lừa giối mình bà Xã hội. Chúng ta đã từng có những Tình Yêu, nhũng Trái Tim như Gs. Tạ Quang Bửu, Gs. Nguyễn Văn Hưởng, Thày giáo nhà thơ Đông Hồ, Gs. Trần Văn Khê,… nhiều và nhiều lắm. Chúng ta cũng có nhiều những Tấm lòng, những Tình Yêu, những Trái Tim luôn nóng hổi và thao thức như anh, Phạm Viết Hưng. Nhưng đáng tiếc…

    Và tôi cũng còn nhớ, nhiều câu chuyện có thể liên quan đến Giáo dục như sau.

    Cách đây khoảng ba mươi năm, một nhóm không đông những tri thức trẻ, có sự cổ vũ của những người lớn hơn, như: Ts. NĐN (một nhà Toán học, một vị tướng), Gs. HB (một Việt Kiều Nhật bản).. được Tài trợ một nguồn kinh phí rất nhỏ, làm một số việc, trong đó có việc viết phần mềm tiếng Việt cho bàn phím máy PC NEC. Nhưng cán bộ trẻ như tôi, rất say mê, hầu như những năm tháng đó chúng tôi ngủ rất ít. Những kiến thức mới nhất, phức tạp nhất được ứng dụng. Hàm bậc 5 xấp xỉ polyline mới được dùng trong AutoCAD 6. cũng được nhanh chóng áp dụng. Thuật toán khó nhất, thuật toán hay nhất, đấy là chúng tôi nghĩ thế. Rất kỳ công. Nhưng sản phẩm đưa ra rất nực cười. Nó không có cấu hình như Bàn phím ngày nay, cấu hình của bàn phím máy chữ, bắt đầu bằng ký tự Q, ký tự A dưới ký tự Q,… Nó đã không quan tâm tới tiện ích của người đánh máy!!! Chúng tôi đã có thể giải Toán, nhưng chúng tôi đã không biết đưa Bài toán gần hơn những tiện ích của cuộc sống. Đó là câu chuyện thứ nhất.

    Mười lam năm sau đó, một Hội nghị Khoa học về Xây dựng, có một ông Thư trưởng GS, TSKH hẳn hoi, phát biểu chỉ đạo hội nghị rằng: cái Viện Khoa học của Bộ phải tập trung viết những chương trình tính toán kết cấu đạt tầm cỡ Thế giới. Một chuyện tầm phào và ngớ ngẩn. Khi đó những chương trình Tính toán Kết cấu nổi tiếng Thế giới tràn ngập VN. Chương trình lậu không nói, chương trình bán có bản quyền chỉ vài ngàn USD đến vài chục ngàn USD. Nhưng cái căn bản không phải là như vậy. Đầu tư xây dựng cơ bản ở VN khi đó hàng chục tỷ USD. Chí phí nằm trong tính toán kết cấu chỉ là vài phần ngàn, phần vạn trong Ngân sách đó. Một tỷ trọng rất lớn là nằm trong Tổ chức thi công, Quản Lý đầu tư xây dựng,… Khoa học Xây dựng cơ bản, khoa học Máy tính đáng ra phải tập trung vào đấy. Mới có thể tác động nhiều nhất đến nền kinh tế. Các Nhà Khoa học thích bán cái mình có, không biết bán cái người ta cần mua!

    Câu chuyên thứ ba, hai mươi năm sau câu chuyện thứ nhất. TpHCM của một đoàn doanh nhân sang Cam-pu-chia. Doanh nhân, Trí thức, Nhà Quản Lý đủ cả. Khảo sát nhìn thấy nhiều thứ. Ví dụ, người Cam-pu-chia Tự do nhập khẩu xe hơi, nên xe tay lái thuận, tay lái nghịch đủ cả; nhưng là thuộc địa cũ của Pháp nên luật Giao thông đi xe bên phải. Thế là, có một dự án, dù là trên giấy may mà ko thực hiện, lập một Nhà máy chuỷen xe tay lái nghịch về tay lái thuận. Trong khi đó, những doanh nhân nhỏ người Đài Loan họ đã nhanh chóng lập các xưởng may mặc quần áo và giày da, sản xuất hoặc đóng gói ở Cam-pu-chia, rồi xuất sang nước thứ 3. Hàng hoá khi đó xuất từ Cam-pu-chia sang một số nước, thuế nhập khẩu được miễn, còn một số nước phải nộp khoảng 25-40%. Từ nền kinh tế Tiểu nông, bước sang nền Kinh tế Kế hoạch hoá, tại thời điểm đó, chúng ta chưa biết cách nhìn của nền Kinh tế Thị trường.

    Tôi nghĩ, Khoa học và Giáo dục của mình cũng có một phần hình ảnh của những câu chuyện trên nữa, anh Hưng à. Cần có Một cái Tầm mới, thoái ly khỏi Cái Tôi, cái Bản Ngã cố hữu.

    Xin dừng ở đây, dù câu chuyện trao đổi chưa hết.

    Tháng 9 tôi ở VN. Hy vọng được gặp anh.
    Chúc anh mọi điều tốt lành.
    Cư sỹ Minh Đạt

    Thích

  4. Xin Đính chính, vị GS mà tôi nhắc đến là HM, không phải là HB. Thành thật xin lỗi GS. HM, xin lỗi Anh Hưng và xin lỗi tất cả mọi người.
    Cs. Minh Đạt

    Thích

  5. Thưa Giáo sư
    Tôi lại đọc lại bài viết của Giáo sư và vẫn thấy hay. Viết học thuật kiểu này rất khó, phải hiểu biết sâu về khoa học, lại phải dùng các ngôn ngữ khác để diễn giải. Tôi đã giới thiệu cho nhiều sinh viên Toán đọc Blog của Giáo sư, đã in bài nghịch lí tự qui chiếu ấy ra cho các em Sinh viên đọc và trao đổi. Xin lỗi Giáo sư vì hổng xin phép trước nhưng chắc GS vui và không phiền lòng chứ?

    Thích

    • Thân gửi chị Yến Nhi,

      Thưa chị,
      Cảm ơn chị Yến Nhi rất nhiều. Chị có thể giới thiệu cho tôi biết một chút về bản thân chị được không? Chắc chắn là tôi phải vui và không phiền lòng vì comment của chị. Nếu phải nói chính xác hơn về cảm tưởng của tôi khi nhận được comment của chị, thì đó là một niềm hạnh phúc.
      Xin chân thành cảm ơn chị.
      Mong chị coi tôi như một đồng nghiệp, và chị có thể trao đổi với tôi thông qua email, địa chỉ bizet09@gmail.com

      Phạm Việt Hưng

      Thích

  6. Thưa giáo sư .
    Khi đọc xong bài này ,cháu có một so sánh vui là ở Việt Nam hiện nay ai là người có tư duy triết học sâu rộng nhất : Hoàng Hồng MInh hay là Phạm Viêt Hưng .

    Thích

    • Cảm ơn bạn Vũ, Tôi không dám nhận lời khen của bạn, vì tôi biết rất nhiều người Việt ở trong nước lẫn ngoài nước rất giỏi. Nhưng tôi coi nhận xét của bạn là một lời nhắc nhở buộc tôi phải làm việc nghiêm túc hơn. Thân ái. PVHg

      Thích

  7. Chào bác Hưng, tuy mới biết đến blog của bác nhưng phải nói là tôi rất khâm phục bác về trình độ hiểu biết khoa học cũng như thế giới quan linh hoạt và mềm dẻo của bác, những vấn đề khoa học khô khan được bác trình bày một cách trơn tru và dễ hiểu, sự uyển chuyên trong ngôn ngữ đó không phải ai cũng làm được.
    Bài viết này của bác cũng rất hay, tôi cũng rất đồng tình với nhiều quan điểm của bác, tôi chỉ thấy có một điều chưa đồng tình lắm về quan điểm của bác về cái đẹp và sự thông minh, đành rằng ko thể dựa tuyệt đối về số đo hay IQ để đánh giá cái đẹp hay sự thông minh nhưng tôi nghĩ nó vẫn chính xác một cách tương đối, quan điểm của tôi về vấn đề này như sau:
    Về dựa và số đo để đánh giá cái đẹp thì số đo 3 vòng là tương đối chính xác, mở rộng hơn về so đo ta có tỷ lệ vàng. Tỷ lệ vàng là một tỷ lệ đẹp trong tự nhiên, nó chi phối rất nhiều tính mỹ thuật của tự nhiên và mỹ quan của con người chịu sự chi phối đó, tỷ lệ giữa các số đo cơ thể càng gần tỷ lệ vàng thì nó càng hoàn mỹ, vì bác là một nhà khoa học nên tôi cũng ko muốn múa rìu qua mắt thợ làm gì cả.
    Còn về IQ thì bác nói cũng ko sai nhưng chưa chính xác, theo tôi đánh giá tư duy hay trí thông minh của con người thuộc 2 trường phái chính là LOGIC và TRỪU TƯỢNG, trong mỗi trường phái lại tiếp tục phân nhánh như sau:
    Logic thực hành thể hiên qua việc khéo tay trong những công việc chân tay cụ thể, những người thợ lành nghề thuộc nhóm này
    Logic lý thuyết thể hiện qua việc tiếp thu những kiến thức trường lớp mang tính logic, những người thầy giỏi truyền đạt kiến thức hay những nhà khoa học về tự nhiên thuộc nhóm này, và chỉ số IQ chính là đánh giá khả năng của nhóm tư duy này
    Trừu tượng thực hành thể hiện qua việc giao tiếp thực tế tốt mang tính người thực việc thực, những nhà ngoại giao giỏi thuộc nhóm này
    Trừu tượng lý thuyết là nhóm tư duy hiếm và quý nhất, nó thể hiện tầm nhìn về xã hội, thấu hiểu nội tâm và vạch ra những đường lối hay chiến lược mang tầm vĩ mô, nhóm tư duy này hiểu được các nhóm tư duy còn lại nhưng điều ngược lại ko đúng. Những lãnh tụ hay người lãnh đạo đất nước hay đứng đầu một tổ chức lớn phải là người có tư duy trừu tượng lý thuyết xuất sắc.
    Sự khác biệt giữa hai nhóm thực hành và lý thuyết ở chỗ tư duy thực hành mạnh về ứng biến thực tế còn tư duy lý thuyết thiên về tính định hướng và tầm nhìn. Đây cũng là vấn đề mà tôi đang nghiên cứu.
    Viết đến đây cũng đã dài, tôi xin kết lại comment này ở đây, dù sao cũng rất vui được đọc nhưng bài viết của bác, một người có tư duy Logic lý thuyết tuyệt vời !
    Tôi hiện ở Hà Nội, nếu bác có về Hà Nội mong bác cho tôi cơ hội được mời bác cafe. email tôi hay dùng là vhviet86@yahoo.com
    Chúc bác mạnh khỏe và may mắn !

    Thích

    • Xin chân thành cảm ơn bạn Hoàng Việt.
      Vâng, thưa bạn, chỉ số IQ là mức độ nhậy bén của chiếc ăng-ten nhận thức. Nhưng chiếc năng-ten đó có nhận được những làn sóng hữu ích hay không thì còn phụ thuộc vào việc định hướng chiếc ăng-ten. Việc định hướng chiếc ăng-ten còn quan trọng hơn mức độ nhạy bén của nó, và điều này vượt lên trên chỉ số IQ, vượt ra ngoài phạm vi của IQ. Đó là EQ (Emotion Quotient), mà EQ là cái không thể dùng logic để giải thích hoặc chứng minh được. Đáng tiếc là xã hội nói quá nhiều đến IQ và ngày càng phụ thuộc vào các chỉ số đo lường, trong khi giá trị NGƯỜI thực sự nằm ở phần không thể đo lường được.
      Thảo luận với một người như bạn thật thú vị, vì có thể thảo luận mãi không dứt, qua đó chúng ta cùng mở mang thêm nhiều hiểu biết. Nếu tôi có mặt tại Hà-nội, tôi sẽ liên lạc với bạn ngay. Thân ái. PVHg

      Thích

  8. Vâng thưa bác việc định hướng cho chiếc ăng-ten nhận thức quả thực vô cùng quan trọng, vì các cụ dạy là sai một li đi một dặm. Việc của tôi lúc này là nghiền ngẫm hết những bài viết của bác, có lẽ nhanh cũng phải mất vài tháng mới nắm bắt được hết những ý tưởng mà bác viết được.
    Chúc bác mạnh khỏe và bút lực sung mãn !

    Thích

  9. Hiện tôi đã load các bài viết của bác về để đọc dần, tôi có một mong muốn không biết bác có vui lòng chấp nhận được ko, đó là tôi rất quan tâm đến bổ đề cơ bản của giáo sư Ngô Bảo Châu trong chương trình Langlands nhưng hiện tại có hơi ít bài viết về chủ đề này, nếu có thể mong bác viết một bài phân tích và giới thiệu về bổ đề của giáo sự Châu để tôi mở rộng tầm nhìn hơn. Cảm ơn bác rất nhiều !

    Thích

    • Thưa bạn Việt, toán học nói riêng và khoa học nói chung rất rộng, không ai nắm hết được mọi lĩnh vực. Tôi e rằng hiểu biết của tôi về Bổ đề cơ bản của Langlands quá ít ỏi để có thể làm người giới thiệu với bạn, mong bạn thông cảm. PVHg

      Thích

  10. Vâng bác nói đúng, khoa học quả là rất rộng và kiến thức của chúng ta quả thực là rất nhỏ nhoi, tôi là người nghiên cứu về khoa học xã hội tuy nhiên tôi cũng rất thích đọc các bài viết về khoa học tự nhiên để chiêm nghiệm những cái hay cái đẹp của nền khoa học này, tôi có một thỉnh cầu nhỏ không biết bác có chấp nhận không, nếu có thể tôi sẽ trao đổi với bác qua email, cho tôi hỏi địa chỉ hòm thư của bác có phải là bizet09@gmail.com không ạh, nếu đúng thì tôi sẽ mail cho bác về vấn đề của tôi, email của tôi là vhviet86@yahoo.com
    Tôi xin chờ hồi âm của bác.
    Chúc bác sức khỏe !

    Thích

  11. Bác ơi bài viết của Bác rất hay. Con đọc từ năm ngoái rồi mà hôm nay nhớ tìm đọc lại thấy vẫn rất hay. Ngẫm càng nhiều càng thấy nhiều thư tuyệt diệu! Lúc trước con đọc trên báo mà hôm nay biết được trang web này của Bác con sẽ thường xuyên lên xem hơn.

    Thích

  12. Hình ảnh con mèo hay cái bàn đều đóng vai trò siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ thông thường. Nếu vậy thì cái gì là siêu ngôn ngữ của “Hình ảnh con mèo hay cái bàn” ?

    Thích

      • Sau khi máy tính lượng tử ra đời, với sự chồng chập xử lý cả 2 hệ số 0 và 1, thì nghịch lý tự quy chiếu đã được giải quyết.

        Thích

      • Thân gửi bạn Lê Tuấn,
        Rất cảm ơn bạn vì đã chia sẻ nhiều ý kiến trong nhiều bài viết khác nhau. Qua những ý kiến của bạn, tôi thấy bạn có một tâm hồn trẻ trung, khao khát hiểu biết, nhưng có lẽ vì còn quá trẻ và quá háo hức với khoa học nên bạn lẫn lộn sự thật với những chuyện tưởng tượng. Thí dụ:
        “Ribosome và Nano Replicator trong tương lai, thứ nano nhân bản có thể ghép các nguyên tử và phân tử theo đúng cách để tạo ra 1 sự sống”
        Đó là chuyện tưởng tượng 100% giống như Darwin tưởng tượng về “cái ao nhỏ âm ấp”, Oparin-Haldane tưởng tượng về “nồi súp tiền sinh thái” … nơi sự sống ra đời một cách ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Hiện nay những chuyện tưởng tượng này đã được chỉ rõ rằng là hoang đường rồi.
        Có thể bạn Lê Tuấn không hiểu hết những bài viết về khoa học trên trang PVHg’s Home nên bạn mới có những ý kiến như vậy.
        Kurt Gödel biết rõ hơn ai hết về những giấc mơ không tưởng của loài người nên không đã khuyên:
        “The meaning of the world is the separation between wish and fact”.
        DJP

        Thích

      • Ngoài lượng tử ra thì còn hệ thống thần kinh nhân tạo mô phỏng não người, hệ thần kinh nhân tạo kết hợp lượng tử thì nguyên lý tự quy chiếu này không phải vấn đề của robot nữa.

        Thích

Bình luận về bài viết này