Ý NGHĨA SÂU XA CỦA TRUYỆN “NGƯỜI MÙ SỜ VOI”

(Bài viết của La Thiếu Bình bình luận chủ đề “Thầy Bói Xem Voi”, đã đăng trên Khoa Học & Tổ Quốc và Vietsciences)

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn 大般涅槃经  do ngài Đàm Vô Sấm 昙无谶 (Dharmaraksa) pháp sư người Ấn, dịch ra Hoa ngữ và Kinh Trường A Hàm của Phật Giáo có kể truyện như sau: Ngày xưa có một ông vua minh triết, thấy các đại thần của mình thường bảo thủ cố chấp các hiểu biết nhỏ hẹp của mình, bèn sai người dắt đến một con voi thật lớn và một bọn người mù bẩm sinh, để cho họ sờ voi. Sau đó vua hỏi: “Các ông đã biết con voi là như thế nào chưa?”

– Biết rồi! Bọn người mù đáp.

– Thế voi như thế nào?

– Voi xem ra như cái đòn xóc. Người sờ ngà voi bảo.

– Voi như cái quạt. Người sờ tai nói.

– Voi như tảng đá. Người sờ đầu voi đáp.

Người sờ vòi lại bảo: “Voi giống như cái chày”.

– Voi giống như cái hộp gỗ. Người sờ mắt voi nói.

– Không phải. Voi như cái giường. Người sờ lưng voi khẳng định.

– Theo tôi con voi như cái thùng to. Người sờ bụng voi kêu lên.

– Đừng cãi nhau nữa, con voi như sợi dây thừng. Người sờ đuôi xác nhận.

Nhà vua nghe bọn mù tranh cãi nhau, cảm khái nói:

Người mù đều rất đông

Tranh nhau nói sự thật

Voi vốn chỉ một thân

Thị phi lại bất đồng

Chúng ta hầu như ai cũng biết câu truyện này, nhưng có lẽ ít người hiểu ý nghĩa vô cùng sâu xa về mặt triết lý của nó. Chúng ta, những nhà chính trị, nhà triết học, nhà khoa học, nhà giáo dục…và những người bình thường khác trong xã hội đều giống như những người mù đó, chúng ta mò mẫm để hiểu thế giới tự nhiên và xã hội, đưa ra kiến giải và áp dụng các mô hình để phát triển xã hội. Hầu hết chúng ta đều bị rơi vào chủ nghĩa hình thức, hay nói chính xác hơn là mắc bệnh hình thức.

Các nhà toán học như David Hilbert muốn xây dựng một lâu đài toán học thông suốt, có thể dùng logic để giải quyết mọi thứ, nhưng thất bại, di lụy của nó là Tân toán học và lý thuyết tập hợp chỉ đem lại gánh nặng vô ích cho học sinh. Các nhà vật lý học như Albert Einstein muốn đưa ra một lý thuyết trường thống nhất để giải thích thông suốt mọi hiện tượng trong vũ trụ, nhưng đến cuối đời ông cũng chịu thất bại không thể hoàn tất công trình, mà cho đến nay và mãi mãi về sau, không ai có thể hoàn thành. Lý thuyết về logic được ứng dụng rộng rãi hiện nay, có thể coi là cự phách nhất, chính là hệ điều hành của các máy vi tính, nhưng cũng không thể cho là hoàn hảo, vì cũng có lúc máy không thể giải đáp được yêu cầu và bị treo, hoặc dễ thấy nhất là đưa ra thông báo không thể làm được.

Sở dĩ tất cả mọi người đều chịu thất bại khi họ muốn dùng cái trí tuệ hiểu biết của mình để giải quyết mọi hiện tượng trong vũ trụ, đó là do sự giới hạn của tri thức. Tất cả mọi tri thức đều rơi vào chủ nghĩa hình thức, tức mắc bệnh hình thức. Người ta dùng logic suy luận để đi từ hình thức này qua hình thức kia với nhận thức là tương đương hay bằng nhau, nhưng không bao giờ đi được đến tận cùng vì hình thức là vô cùng, luôn luôn biến động trong không gian và thời gian, không thể khẳng định được và do đó không bao giờ hiểu được cái toàn thể. Điều này đã được Kurt Gödel phát biểu và chứng minh thành “Định lý bất toàn” công bố năm 1931. Định lý này được phát biểu thành 2 phần :

Định lý 1 : Nếu một lý thuyết dựa trên một hệ tiên đề phi mâu thuẫn thì trong lý thuyết ấy luôn luôn tồn tại những mệnh đề không thể chứng minh cũng không thể bác bỏ.

Định lý 2 : Không tồn tại bất cứ một quy trình suy diễn nào cho phép chứng minh tính phi mâu thuẫn của một hệ tiên đề.

Trước Kurt Gödel mấy ngàn năm, Phật Giáo cũng đã đề cập đến điều này. Kinh Bát nhã ba la mật đa nói : “Chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức , vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý , vô sắc thanh hương vị xúc pháp…”

Dịch nghĩa : Các pháp (vạn sự vạn vật) không có hình tướng, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, như vậy trong cái không, không có vật chất, không có các cảm giác như thọ (tiếp xúc), tưởng (tưởng tượng), hành ( chuyển động, hoạt động), thức (phân biệt), không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý thức, không có các đối tượng của các giác quan là sắc (vật chất), thanh (âm thanh), hương (mùi hương), vị ( vị giác của lưỡi), xúc ( cảm giác của thân thể), pháp ( đối tượng của ý thức)…

Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do 12 nhân duyên nhưng đó cũng chỉ là tạm bợ chứ không phải rốt ráo, đó là tương đối, giải thích cho người bình thường tạm hiểu, không thể tuyệt đối hóa. Trong Bát Nhã Tâm Kinh thì Phật phủ định nhân duyên (phi nhân duyên) qua câu trích ở trên, đồng thời cũng phủ định tự nhiên (phi tự nhiên) Trí óc con người không làm sao hiểu nổi vì cái chân lý toàn thể là phi logic, không có không gian, thời gian, số lượng, tất cả tri kiến đều vô dụng. Tri kiến chỉ có giá trị trong một bối cảnh nhỏ hẹp, tương đối, có không gian, thời gian, số lượng, còn nếu muốn tuyệt đối hóa, muốn lập nên một lý thuyết có giá trị phổ quát khắp không gian thời gian chỉ là ảo tưởng. Einstein đã theo đuổi cái ảo tưởng đó, cố xây dựng lý thuyết về Trường Thống Nhất  cho tới khi qua đời vào năm 1955, đành chịu thất bại, bởi vì ông không tin vào Định Lý Bất Toàn của Kurt Gödel công bố năm 1931.

Ý trong Tâm Kinh nói là bản thể của thế giới là không, không có gì cả, chúng ta thấy có đủ thứ như sơn hà đại địa, sinh vật, con người, nhà cửa xe cộ…đó là do bệnh hình thức. Bệnh này kinh Phật gọi là “ thế lưu bố tưởng” tức là căn bệnh tưởng tượng đã lưu truyền phổ biến ở thế gian. Thật ra thế lưu bố tưởng chưa hẳn là bệnh, đó là nhận thức tuy lầm lạc (vì vô minh) nhưng còn là tướng mạnh và vô hại, nó là cái dụng của Tâm cũng tức là của cái Chân Lý “Tâm như hư không vô sở hữu”, chỉ có thái độ chấp trước cho là nhận thức đó đúng 100%, có thật 100% không một chút nghi ngờ gì mới đích thực là tướng bệnh và có hại, kinh Phật gọi là bệnh “trước tưởng” tức là cố chấp cho là có thật. Điều này cũng giống như kẻ ngốc cho rằng những hiện tượng trên màn hình vi tính là hoàn toàn có thật, không biết đó là ảo. Với trí bát nhã, Phật thấy các hiện tượng trong thế giới đời thường cũng là ảo, chẳng khác mấy với với các hiện tượng mà ta thấy ngày nay trên máy vi tính, nó chỉ có cao cấp hơn, các cảm giác đồng bộ của lục căn (mắt tai mũi lưỡi, thân xác, ý thức) khi tiếp xúc với lục trần (sắc thanh hương vị xúc pháp) khiến con người có cảm giác tất cả đều có thật.

Chính vì bản chất của thế giới là không, không có bắt đầu, không có kết thúc, nên tất cả mọi hiện tượng đều nằm trên một vòng tròn luân hồi, không có lối ra. Phật giáo gọi vòng tròn luân hồi đó là “mở mắt chiêm bao” tức là chúng ta chiêm bao giữa ban ngày mà không hay.

Bệnh hình thức là gì ? Đó là bệnh cố chấp vào hình thức, chúng ta là những người mù sờ voi, con voi tượng trưng cho cái chân lý toàn thể, tri thức của ta là sự mò mẫm từ hình thức này qua hình thức khác của cái toàn thể đó mà không bao giờ nắm được toàn thể. Hãy khảo sát một thí dụ để thấy rõ bệnh hình thức là như thế nào. Nước là gì ?

Một ly nước đối với người bình thường thì đó là nước có thể dùng để giải khát, để tắm rửa giặt giũ, để sản xuất công nông nghiệp, còn đối với nhà hóa học thì đó là H2O, có thể phân tích thành hai loại khí là hydro và oxy. Nếu đi sâu hơn nữa thì cấu tạo của nguyên tử hydro gồm có 1 hạt nhân bao gồm 1 proton ở trung tâm, và 1 hạt electron quay xung quanh ở khoảng cách rất xa, như vậy nguyên tử thật ra là trống rỗng. Hydro có 2 chất đồng vị trong thiên nhiên là deutérium và tritium. Nhân của deutérium có 1 proton và 1 neutron, còn nhân của tritium có 1 proton và 2 neutron. Deutérium có thể kết hợp với oxy để thành nước nặng thường được dùng làm chất điều hòa trong các lò phản ứng nguyên tử. Tritium kết hợp với oxy thì thành nước siêu nặng.

Đi sâu hơn nữa vào hạt nhân nguyên tử ta thấy :

Kích thước của hạt quark cực kỳ nhỏ. Để hình dung, ta lấy nguyên tử carbon vốn đã rất nhỏ (0,5 nm -nano mét, 1nm= một phần tỉ mét), phóng đại bằng kích thước quả địa cầu (phóng đại cỡ 24 triệu tỉ tức 24×1015 lần) thì thấy hạt quark có kích thước chưa tới 5 ly (mm).

Nếu ta chỉ thấy nước là nước để ăn uống và sinh hoạt, đó là ta đã mắc bệnh hình thức, tức là bám chặt vào một hình thức của vật chất, giống như người mù sờ voi, không biết rằng bản thể của nước là các hạt quark và electron. Nhưng hạt quark không thể đứng một mình nghĩa là không thể độc lập tồn tại, hai hạt quark kết hợp với nhau mới thành hạt meson (gồm 1 quark và 1 phản quark, hạt này chỉ tồn tại một phần nghìn tỉ giây dưới dạng vật chất. Tương tác của các hạt quark rất phức tạp, lực kết nối chúng là lực tương tác mạnh được thực thi bởi một loại hạt trao đổi là gluon, khi tách 2 quark rời xa nhau thì lực này rất mạnh đến vô hạn nên không thể tách được gọi là hiện tượng giam hãm –confinement- còn khi chúng tiến sát nhau thì lực này bằng 0, bán kính tương tác của lực này chỉ khoảng một phần triệu tỉ mét, tức 10-15 m, ngoài khoảng cách này, lực gần như biến mất) ba hạt quark kết hợp với nhau mới thành hạt baryon, hai loại hạt baryon cơ bản nhất là hạt proton và hạt neutron, gọi chung là hadron nằm trong hạt nhân nguyên tử. Đó rõ ràng mang ý nghĩa nhân duyên hay sanh diệt. Một hạt quark đơn lẻ không thể độc lập tồn tại, phải có yếu tố nhân duyên kết hợp hai hay ba hạt quark mới sanh ra vật chất. Nếu tách rời các hạt quark thì vật chất biến mất. Khi phân tích cơ cấu nguyên tử, người ta thấy rằng phần lớn khối lượng nguyên tử nằm ở hạt nhân. Trong hạt nhân, proton có khối lượng gấp 1836 lần electron (điện tử) còn neutron có khối lượng gấp 1839 lần electron. Như vậy ta thấy khối lượng của electron rất khiêm tốn so với hạt nhân. Tuy nhiên vai trò của hạt electron trong cơ chế tạo ra cảm giác của các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể thì lại rất lớn. Tất cả những cảm nhận giác quan của chúng ta về vật chất, kể cả các hóa tính và lý tính của từng loại nguyên tố, đều do đám mây electron chuyển động rất nhanh quanh hạt nhân tạo ra, tất nhiên đám mây đó được sắp xếp thế nào cũng tùy thuộc hạt nhân. Như vậy bản chất của cảm giác là điện (electron là điện tử mang điện tích âm) đó là một loại ảo giác rất kỳ diệu, rất rõ ràng, rất khác biệt nhau khiến cho đại đa số người và tất cả loài vật đều tưởng là thật.

Trở lại vấn đề nước là gì, ta chỉ có thể trả lời một cách hời hợt đó là chất lỏng thiết yếu cho đời sống sinh vật, dùng để uống, sinh hoạt và sản xuất. Câu trả lời đó tất nhiên là mắc bệnh hình thức. Đó là thế lưu bố tưởng, còn nếu ta tin chắc 100% là nước có thật thì đó là trước tưởng, một căn bệnh hình thức rất trầm trọng của chúng sinh nói chung và con người nói riêng. Nó sẽ dẫn tới khổ do Sinh, Lão, Bệnh, Tử, tới chiến tranh do tranh giành tài nguyên, lãnh thổ, lãnh hải, đất đai, nhà cửa, tài sản, tới đủ thứ thiên tai, nhân họa. Chứ nếu đi sâu nghiên cứu đến tận cùng bản thể thì không thể trả lời được nước thực sự là gì. Nói đó là H2O thì chỉ là một hình thức nông cạn, chưa đầy đủ. Nói đó là một kiểu tập hợp của các hạt proton, neutron và electron cũng chưa đủ. Nói đó là một kiểu tập hợp của các hạt quark và electron cũng chưa hẳn là tận cùng, bởi vì khi tách rời được các hạt quark như Trương Bảo Thắng đã từng biểu diễn khi đi xuyên qua tường của Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh năm 1982, thì vật chất biến mất hoàn toàn, trở thành không, thân thể anh ta và bức tường đều biến mất, anh ta có thể đi xuyên qua tường dễ dàng để xuất hiện lại bên trong. Nói tóm lại, tất cả chúng ta (chỉ trừ Đức Phật và các vị Tổ Sư Thiền đã giác ngộ như Huệ Năng, Đơn Điền, Hám Sơn, Nguyệt Khê…) đều chỉ là những người mù sờ voi, không biết con voi thực sự như thế nào, không thể xác định được. Chính vì vậy Kinh Kim Cang mới có câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” Phải không có chỗ trụ mới ngộ ra cái tâm ấy, bởi vì nếu có chỗ trụ thì mắc bệnh hình thức, bệnh trước tưởng, không phải chân lý.

Định lý bất toàn của Kurt Gödel là sự xác nhận khoa học rằng tri thức của con người là có hạn, không thể đạt tới cái toàn thể bằng trí óc phân tích, con người có thể dùng cái đã biết, suy luận bằng logic ra cái chưa biết nhưng không bao giờ đạt tới cái biết trọn vẹn. Tuy nhiên không phải vì thế mà con người bó tay, thực nghiệm của các nhà tu hành Phật Giáo chứng tỏ rằng có thể đạt tới cái toàn thể bằng cách chấm dứt tư duy, bởi vì suy luận chính là sở tri chướng, là áng mây đen che lấp mặt trời, ngừng tư duy tức là quét sạch đám mây đó để mặt trời chân lý tự hiện ra. Giác ngộ là thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi cái vòng tròn luẩn quẩn. Nói thoát khỏi cũng chỉ là một cách diễn tả tạm bợ, thật ra luân hồi không có thật, thế giới vũ trụ cũng chỉ là huyễn ảo không có thật. Khoa học không thể nào tách rời được các hạt quark trong hạt proton và neutron vì phải cần tới một năng lượng vô hạn, nhưng bằng phương pháp tâm linh, Đức Phật và các vị Tổ Sư Thiền làm được, một vài người có công năng đặc dị như Trương Bảo Thắng cũng làm được.

Khi làm được như vậy họ mới thấu hiểu rằng vũ trụ chỉ là huyễn ảo không có thật. Các nhà khoa học, các nhà duy vật, trái lại tin chắc rằng thế giới vũ trụ là có thật, họ đều là những người mù sờ voi, mắc bệnh trước tưởng mà không tự biết. Chính vì nhận ra vũ trụ là không có thật nên  ngài Hộ Pháp (Dharmapàla), xuất phát từ ý nghĩa của bộ kinh Duy thức tam thập  tụng (zh. 唯識三十頌, sa. triṁśikā-vijñaptimātratāsiddhi-kārikā) của Bồ Tát Thế Thân (世親 Vasubandhu), đã viết bộ “Thành duy thức luận” mà ngài Huyền Trang đã dịch ra Hán văn trong đó có câu tổng kết  “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” (Ba cõi -dục giới, sắc giới, vô sắc giới- đều là tâm, vạn vật đều là do tâm thức biến hiện”

Vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Quốc là Huệ Năng, sống vào đời Đường, cùng thời với nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên, là một trong những người nổi tiếng nhất đã làm được điều đó, tức là ngộ cái chân lý toàn thể mà Thiền gọi là Kiến tánh thành Phật (Phật chỉ có nghĩa là người giác ngộ). Ông biết trước ngày viên tịch và căn dặn đệ tử cứ để y nguyên thân xác ông sau khi tịch diệt ở tư thế ngồi kiết già. Nhục thân đó trở thành bất hoại, không cần bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài, đến nay trải qua 1300 năm, nhục thân bất hoại của Huệ Năng vẫn còn nguyên vẹn, được thờ tại chùa Nam Hoa gần Quảng Châu, Trung Quốc, cùng với nhục thân bất hoại của Hám Sơn và Đơn Điền. Còn nhục thân của Nguyệt Khê (tịch năm 1965) thì thờ tại chùa Vạn Phật ở Hong Kong. Các vị Tổ Sư để lại nhục thân bất hoại nhằm mục đích làm niềm tin cho đời sau, để chứng tỏ rằng những điều họ nói là có cơ sở.

Chú thích:

Kurt Gödel : (1906-1978) Nhà toán học người Mỹ gốc Áo, tác giả của Định Lý Bất Toàn.

David Hilbert : (1862-1943) là người đứng đầu nhóm “Xây dựng một hệ thống siêu-toán-học (meta-mathematics) – một hệ thống toán học tuyệt đối siêu hình, tuyệt đối thoát ly khỏi thế giới hiện thực, cho phép XÁC ĐỊNH tính trắng/đen, đúng/sai của bất kỳ một mệnh đề toán học nào và chứng minh tính phi mâu thuẫn của toàn bộ toán học.”

Mục đích của Hilbert không bao giờ đạt được vì đó chỉ là ảo tưởng như Định Lý Bất Toàn của Gödel  đã chỉ ra.

Tài liệu tham khảo :

1.         “Mr Why” & Định Lý Bất Toàn của Phạm Việt Hưng- Vietsciences

2.         Wikipedia

14 thoughts on “Ý NGHĨA SÂU XA CỦA TRUYỆN “NGƯỜI MÙ SỜ VOI”

  1. Kính chào Giáo sư,
    Tôi là Lê Nguyên chủ trương trang Phù Sa (www.phusa.info) tình cờ đọc được bài này trên trang Giao Điểm, lần theo đường link mới biết được trang này. Lướt qua vài tựa đề trong đây đã rất tâm đắc về giá trị tri thức của tác giả. Đó là lý do thúc đẩy tôi viết thư này, trước bày tỏ sự biết ơn và kính trọng đến Giáo sư, thứ đến là giới thiệu với Giáo sư trang mạng PS của chúng tôi, cuối cùng là xin được phép phổ biến những bài trong blog này trên trang PS như tiếp một bàn tay gieo hạt hiểu biết… và nếu có thể rất mong được hợp tác cùng nhau trong mục đích hiến tặng hiểu biết cho người.
    Nhân đây, xin chúc Giáo sư một mùa Giáng sinh vui vẻ, một Năm mới an khang!
    Kính,
    Lê Nguyên.

    Thích

  2. Tôi đọc về cái không, cái hư ảo mà GS Phạm Việt Hưng viết trong bài này và tôi rất tâm đắc. Tuy nhiên, cái tuy nhiên phải gió, tôi không hoàn toàn đồng ý với ông về những diễn dịch của ông về Kinh Bát Nhã Tâm Kinh. Đức Phật, theo thiển ý của tôi, khi nói vạn vật và mọi hiện tượng đều không, tức là là không có một bản sắc riêng biệt (identité propre), một bản ngã (self) riêng biệt, bất biến và đồng nhất chứ không phải là hư ảo hay không có, không hiện hữu như ông diễn dịch (ông dùng chữ “không thật”). Vì tất cả đều nương tựa vào nhau để sinh thành và hoại diệt (nguyên lý duyên khởi của Kinh Hoa Nghiêm). Chẳng hạn cái bàn được làm bởi những yếu tố không bàn (la table est faite des éléments non-table). Cái bàn vì vậy trống rỗng, trống rỗng của một bản ngã riệng biệt, cái bàn vì vậy vô ngã. Nhưng cái bàn vẫn hiện hữu. Vì quan niệm vô ngã này mà chúng ta hiện hữu (we are all), chúng ta thật sự có mặt. Tâm Kinh Bát Nhã giúp thiền sinh phá được cái chấp về NGÃ để đạt đạo (tức là thực chứng được cái ngộ). Chúng ta biết đó là nguyên tắc để quán chiếu, là nguyên lý của quả cam ngọt. Nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta ăn được quả cam ấy đâu. Vì thế đem Tâm Kinh nhà Phật ra để so sánh và làm một thuyết lý để giải thích vũ trụ hay nguyên tử vật chất là đi sai tiên đề, đúng như Godel đã trình bày.
    Thân kính

    Đã thích bởi 1 người

  3. Kính gửi Ông Nguyễn Duy Vinh,
    Tôi là Phạm Việt Hưng. Xin đa tạ Ông vì đã có comment đối với bài “Ý nghĩa sâu xa của truyện Người Mù Sờ Voi”. Tuy nhiên, tác giả của bài này là La Thiếu Bình (tôi đã ghi rõ trên Trang Nhà của tôi). Vì thế, comment của Ông một mặt đã được post lên Trang Nhà của tôi, một mặt được gửi tới Ông La Thiếu Bình. Ông Bình đã đọc, và đã có ý kiến phúc đáp. Nay tôi xin gửi ý kiến phúc đáp đó tới Ông, đồng thời cũng post lên Trang Nhà của tôi. Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn Ông. PVHg.
    Sau đây là ý kiến phúc đáp của tác giả La Thiếu Bình:
    Kính gởi : Ông Nguyễn Duy Vinh
    Cám ơn Ông đã có phản hồi về bài viết trên. Theo chỗ tôi hiểu, Bát Nhã Tâm Kinh không chỉ phá Ngã chấp mà còn phá luôn Pháp chấp (tức chấp thời gian, không gian, số lượng, vũ trụ vạn vật là có thật), phá cả Không chấp ( tức chấp cái Hư Vô). Nói chung Đạo Phật phá tất cả mọi chấp trước. Thế gian không phải không có, nhưng nó chỉ là huyễn ảo, không phải thật. Tại sao là huyễn ảo ? Bởi vì không cái gì là có thực chất. Điều này là rất khó hiểu và khó chấp nhận, bởi chẳng lẽ cái nhà tôi đang ở, cái xe tôi đang đi, vật dụng chung quanh, thế giới tôi đang sống đều là ảo không có thật cả sao ? Tư duy của tôi nhận thấy rằng các hạt cơ bản hạ nguyên tử như quark, electron đều là hạt ảo. Cho nên tất cả mọi cấu trúc vật chất đều là cấu trúc ảo. Vật chỉ trở nên thật khi có một cấu trúc ảo khác là sinh vật mà tiêu biểu nhất là con người có 6 giác quan, cảm nhận các cấu trúc ảo khác là vật thật. Vì tính chất đồng bộ của các giác quan : mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân thể tiếp xúc, ý thức suy nghĩ, tất cả đều cảm thấy có thật. Sự thật chỉ bị phát giác khi các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu các hạt như photon, electron, nói chung là lượng tử, họ thấy lượng tử có những biểu hiện rất kỳ lạ, trái ngược với nhận thức thông thường, chẳng hạn trong hiện tượng rối hay vướng víu lượng tử (quantum entanglement). Chính Einstein cũng còn chấp pháp (chấp không gian, thời gian là có thật) nên đã không hiểu được hiện tượng này, vì vậy ông gọi đó là tác động ma quái từ xa ( Spooky action at a distance). Không tin rằng thời không (space-time) đều không có thật, vật chất, năng lượng cũng chỉ là ảo. Đây cũng chính là cuộc khủng hoảng của vật lý học hiện đại mà Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Tường Bách đề cập trong bài viết : Khi Vật Lý gõ cửa bản thể học.
    http://old.thuvienhoasen.org/khivatlygocuabanthehoc.htm
    Thân mến kính chào Ông
    La Thiếu Bình

    Đã thích bởi 2 người

  4. Thân gửi hai anh La Thiếu Bình và GS Phạm Việt Hưng,
    Tôi rất hân hạnh nhận được hồi âm. Quý hóa thay vì tôi luôn được học hỏi qua những phản biện như thế này. Và dĩ nhiện đây là một đề tài khá lớn mà tôi không dám quả quyết là mình nhìn thấu đáo (và chắc chắn là tôi cũng chỉ nhìn thấy một phần của con voi thôi). Việc hiểu biết của tôi về vật lý nguyên tử dĩ nhiên rất giới hạn. Riêng về phần đạo Phật thì tôi có đọc nhiều sách và nghiên cứu say mê, nhất là những sách nói về những kinh đơn giản có thể giúp tôi trong đời sống hằng ngày. Riêng Tâm Kinh Bát Nhã thì tôi cũng có nghiên cứu. Chỗ tôi vẫn đinh ninh là đạo Phật là đạo cứu khổ chứ không phải là đạo giải thích những cấu trúc, hay cơ năng hay những vận hành của vũ trụ. Tâm Kinh Bát Nhã là kinh rốt ráo nhất trong đạo Phật. Đây chính là cốt tủy của cái thấy cao nhất của đạo Phật. Thấy cao nhất để thoát khổ chứ không phải để biết cấu trúc của vạn vật. Cái thấy này là cái thấy về vô ngã (cái không có tự tánh) của năm uẩn mà thoát khỏi những khổ đau ách nạn. Cái thấy thực chứng của Bồ Tát Quán Tự Tại (cũng là Bồ Tát Avalokiteshvara). Mục đích của đạo Phật là giải thoát con người ra khỏi cái nhìn sai lầm của mình (vô minh) về bản lai diện mục (kiến tánh thành Phật). Sự tu tập (thiền và quán chiếu) giúp người tu đạt được cái thấy cao này (Trí Tuệ Ba La Mật) (số người ăn được quả cam này tiếc thay còn quá ít theo các vị Thầy lớn). Bài Pháp đầu tiên của Đức Phật là về bốn sự thật tuyệt vời và 8 con đường chân chính dẫn đến hạnh phúc (hay sự vắng mặt của khổ đau). Bài Pháp cuối cùng Ngài cũng chỉ nói về bốn sự thật tuyệt vời và 8 con đường chân chính dắt đến hạnh phúc. Có một người hỏi về cấu trúc của vũ trụ và Ngài đã im lặng không trả lời.
    Và tôi xin dừng ở đây. Chúc hai anh luôn vui mạnh và một lần nữa xin đa tạ đã hồi âm..
    Thân kính,
    NDV

    Đã thích bởi 1 người

  5. Thư của tác giả La Thiếu Bình gửi ông Nguyễn Duy Vinh:
    Kính gởi : Ông Nguyễn Duy Vinh (thông qua PhamVietHung’s Home)
    Tôi có đọc phản hồi tiếp của ông, thấy hình như vẫn còn chút vương vấn, nên viết tiếp mấy ý như sau :
    Thuyết thập nhị nhân duyên của Phật chính là giải thích cấu trúc của vũ trụ với mắt xích căn bản là Vô minh dẫn đến mắt xích cuối cùng là Lão Tử. Chúng tôi dùng cơ học lượng tử là suy diễn thêm thuyết thập nhị nhân duyên mà thôi (kể ra cũng là nhiều chuyện !). Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Phật đã phủ nhận tất cả (trích )
    “Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời , chiếu kiến ngũ-uẩn giai không , độ nhất thiết khổ ách .
    “Xá-Lợi-Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ,Tưởng,Hành,Thức diệc phục như thị “.
    Xá-Lợi-Tử! thị chư pháp không tướng, bất sinh , bất diệt, bất cấu , bất tịnh, bất tăng , bất giảm.
    Thị cố không trung vô sắc, vô thọ , tưởng , hành , thức.
    Vô nhãn , nhĩ , tỷ thiệt , thân , ý ; vô sắc ,thanh , hương , vị ,xúc , pháp ; vô nhãn giới ,nãi chí vô ý thức giới.
    Vô Vô-minh diệc , vô Vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
    Vô Khổ , Tập , Diệt , Đạo , vô Trí diệc vô Đắc, dĩ vô sở đắc cố , Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật–đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên đảo mộng-tưởng, cứu cánh Niết-Bàn.”
    Trong này, Phật đã phủ định Thập nhị nhân duyên (không có Vô minh, cũng không có hết Vô minh, không có Già Chết, cũng không có hết Già Chết, không có Nhãn Nhĩ Tỷ Thiệt Thân Ý, không có Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, không có 18 giới, không có Thọ Tưởng Hành Thức, không có Khổ Tập Diệt Đạo, không có Trí cũng không có Đắc, xa rời điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn)
    Đoạn kinh trên rõ ràng nói tất cả chỉ là ảo, không có thật. Chúng sinh Khổ là vì chấp thế giới là có thật. Sự giải thoát trong Đạo Phật không phải là thoát khỏi cái Khổ khách quan có thật ở bên ngoài, mà là ngộ ra cái Ta (giả) không có thật, Thế giới không có thật, Phật tánh (chính là ta) tự thấy cái Khổ cũng chỉ là ảo, không có cái Khổ để mà giải thoát.
    Trân trọng kính chào và chúc Ông vui khoẻ.
    La Thiếu Bình

    Thích

  6. Ðọc và hiểu
    Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh
    Trịnh Nguyên Phước
    Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh (Maha Prajnaparamita Hridaya Sutra), gọi tắt là Bát Nhã Tâm Kinh (Sutra du Coeur), là một trong những bài kinh phổ biến và quan trọng nhất của Phật giáo Ðại Thừa.

    Ðó là một bài kinh ngắn được tụng niệm thường xuyên tại các ngôi chùa Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Tây Tạng, v.v., dù là theo Thiền, Tịnh Ðộ hay Mật Tông. Người Phật tử Việt Nam không mấy ai không thuộc lòng câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” của bài kinh, và “sắc không” đã trở thành từ nữg thông thường để diễn tả tinh thần siêu thoát của đạo Phật.

    Nguồn gốc Tâm Kinh

    Bát Nhã Tâm Kinh là một trong những bài kinh của bộ kinh lớn Bát Nhã Ba La Mật Ða (Prajnaparamita Sutra).

    Ðó là một trong những bộ kinh đầu tiên của Phật giáo Ðại Thừa, xuất hiện tại Ấn Ðộ vào giữa thế kỷ thứ I trước CN và thế kỷ thứ I sau CN, và tiếp tục được bổ xung cho tới thế kỷ thứ IV sau CN. Toàn phần bộ kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða gồm 40 bài kinh, dài ngắn khác nhau (từ 300 cho đến 100000 câu), tất cả in lại được 600 quyển ! Có những bài kinh còn lại dưới bản nguyên tác tiếng Phạn (sanskrit), nhưng đa số (trong đó có Bát Nhã Tâm Kinh) chỉ còn lại dưới bản dịch sang tiếng Trung Hoa và Tây Tạng.

    Tác giả của những bài kinh này không biết là ai, hẳn là có nhiều tác giả vô danh (hay cố ý ẩn danh) viết trong những thời kỳ khác nhau. Một trong những quan niệm sai lầm cho rằng tác giả là ngài Long Thụ, (hay Long Thọ, Nagarjuna), một trong những triết gia lớn nhất của Ấn Ðộ (khoảng thế kỷ thứ II – III sau CN). Thật ra, đối với bộ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða, ngài Long Thụ chỉ là một nhà chú giải, bình luận chính yếu đã có công lớn làm sáng tỏ ý nghĩa của bộ kinh.

    Bát Nhã Tâm Kinh là bài kinh ngắn gọn nhất trong bộ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða, và cùng với một bài kinh khác cũng tương đối ngắn trong bộ Kinh Bát Nhã, là Kinh Kim Cương (hay Kim Cang, Vajracchedika Sutra), là hai bài kinh được lấy làm nền tảng cho tinh thần Thiền, tinh thần phá chấp của đạo Phật.

    Bản Maha Prajnaparamita Hridaya Sutra tiếng Phạn được ngài Huyền Trang đời Ðường sang Ấn Ðộ thỉnh về, rồi dịch sang tiếng Trung Hoa năm 649, tại chùa Từ Ân.

    Hiện nay, còn lại 2 bản Bát Nhã Tâm Kinh, một bản “dài” bằng tiếng Tây Tạng và một bản “ngắn” bằng tiếng Trung Hoa. Bản chúng ta vẫn thường dùng tại Việt Nam là bản “ngắn” bằng tiếng Hán (gồm có 260 chữ), gần đây đã được dịch sang tiếng Việt trong những nghi thức tụng niệm.

    Ðọc và hiểu Tâm Kinh

    Có thể nói rằngBát Nhã Tâm Kinh, bằng cách trình bầy một cách sáng sủa và ngắn gọn tánh Không (Shunyata), đã chứa đựng được cái thâm thúy, cốt tủy của tinh thần đạo Phật.

    Nhưng Không cũng là một trong những khái niệm cao thâm, khó hiểu nhất của đạo Phật. Nhất là khi khái niệm đó dùng để đả phá những khái niệm mà con người thường vướng mắc phải.

    Hiểu lầm chữ Không cũng chẳng khác gì không biết đến chữ Không, có khi còn tệ hại hơn là khác. Tụng niệm thường xuyên và thuộc lòng Bát Nhã Tâm Kinh, mà không hiểu được chữ Không, chỉ vướng mắc ở những câu lạ lùng như “vô quái ngại cố”, “viễn ly điên đảo”, “vô hữu khủng bố”, hay câu thần chú ở cuối bài “Yết đế, yết đế…”, thì cũng chỉ là điều vô bổ mà thôi. Ðiều quan trọng là làm sao hiểu được cái ý nghĩa của bài kinh, cái tinh thần Bát Nhã mà đức Phật và các vị tổ sư kế tiếp ngài đã truyền đạt cho các thế hệ sau, qua khắp năm châu và hơn hai ngàn năm lịch sử.

    Qua bài này, chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu thêm về Bát Nhã Tâm Kinh. Dựa lên bản kinh phổ biến nhất viết bằng chữ Hán, chúng ta sẽ dịch sang tiếng Việt và bình luận từng câu. Nếu cần, chúng ta sẽ thêm vào tiếng Pháp để làm sáng thêm tỏ ý nghĩa.

    Dịch kinh Hán-Việt, và bình luận

    1. “Maha Prajnaparamita Hridaya Sutra” (tên bài kinh)

    Maha= to lớn; Prajna= trí tuệ Bát Nhã; Paramita (Ba La Mật Ða) = tới bên bờ bên kia (tiếng Hán là “đáo bỉ ngạn”); Hridaya= tâm; Sutra = kinh.

    Maha Prajnaparamita Hridaya Sutra có nghĩa là “bài kinh về cái tâm đạt được trí tuệ Bát Nhã đưa tới bên bờ bên kia”. Cũng có thể hiểu là “bài kinh cốt yếu” (“tâm” theo nghĩa trung tâm = central) về trí tuệ Bát Nhã, nhưng hiểu “tâm” theo nghĩa cái tâm của nhà Phật có lẽ đúng hơn. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau.

    Tên bài kinh có thể giữ nguyên văn Phạn-Hán là : “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh”, hoặc là dịch theo Hán-Việt là “Ðại Trí Tuệ Siêu Việt Tâm Kinh”.

    2. “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Ða, thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách”.

    = “Bồ Tát Quán Tự Tại, sau khi nhìn sâu vào sự vật bằng trí tuệ Bát Nhã, liền thấy rõ rằng năm uẩn đều không, cho nên vượt qua khỏi mọi khổ ách”.

    3. “Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị”.

    = “Này, Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ tưởng hành thức, cũng đều như vậy”.

    Khung cảnh xuất hiện của hai câu đầu này có thể hiểu theo hai cách, tùy theo bản kinh “ngắn” hay bản kinh “dài” :

    a) Theo cách hiểu thông thường, dựa lên bản kinh “ngắn” (phổ biến tại Trung Hoa, Việt Nam), thì đây là lời giảng của đức Phật Thích Ca cho một đại đệ tử ngài là Xá Lợi Phất (Shariputra), sau khi lấy gương Bồ Tát Quán Tự Tại (cũng là một tên hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, tiếng Phạn là Akita, là một tên hiệu của Avalokiteshvara), đã nhìn sâu vào sự vật bằng trí tuệBát Nhã, nên thấy rõ rằng năm uẩn đều không, và vượt qua khỏi mọi khổ ách…

    b) Còn một cách hiểu thứ hai, dựa lên bản kinh “dài” (theo truyền thống Tây Tạng). Bản kinh này có thêm một đoạn đầu và một đoạn chót : “Bữa nọ, đức Phật Thích Ca cùng các vị Bồ Tát và các tỳ kheo tụ họp nhau ở trên nứi Linh Thứu. Trong khi đức Phật thiền định, thì Bồ Tát Quán Tự Tại, sau khi nhìn sâu vào sự vật bằng trí tuệ Bát Nhã, liền thấy rõ rằng năm uẩn đều không, nên giảng giải cho Xá Lợi Phất tánh Không của sự vật (…) Ðức Phật không nói một lời nào, và sau khi Bồ Tát Quán Tự Tại giảng xong, ngài xả thiền và nói : “Ðúng lắm ! Ðúng lắm ! Ta và các vị Bồ Tát hoàn toàn tán thành, và tán thán công đức của Bồ Tát Quán Tự Tại”. Tất cả nghe xong đều hoan hỉ và cúi mình đảnh lễ đức Phật và các vị Bồ Tát”.

    Nhưng nếu hiểu như vậy, thì chúng ta có thể tự hỏi tại sao Bồ Tát Quán Tự Tại, là một nhân vật biểu tượng cho lòng từ bi, cứu khổ, lại giảng giải cho Xá Lợi Phất, một đại đệ tử của đức Phật nổi tiếng về thông minh và trí tuệ ?

    Thật vậy, Xá Lợi Phất (Shariputra) là một đệ tử đặc biệt thông minh và thông thái của đức Phật. Chỉ 15 ngày sau khi theo hầu đức Phật, ngài đã đạt được giác ngộ, và theo lời của các đồng môn, “ngoài đức Thế Tôn ra, không ai có được một phần mười sáu trí tuệ của Xá Lợi Phất”. Ngài lại đặc biệt có tài tổ chức, nên được đức Phật trao cho trọng trách giảng huấn tăng đoàn. Ðáng lẽ ra ngài phải là người thay thế đức Phật để điều khiển phong trào, nhưng chẳng may ngài đã viên tịch trước đức Phật 6 tháng. Tuy vậy ảnh hưởng của ngài vẫn tiếp tục trên nhiều thế hệ tăng già, với một số đi theo đường lối của ngài (Thượng Tọa Bộ), và một số chống đối lại ngài (Ðại Chúng Bộ). Bởi vì trí tuệ của Xá Lợi Phất bị đánh giá là khô khan, lạnh lùng, thiên về lý trí.

    Như vậy, chúng ta có thể hiểu được giá trị biểu tượng của bài giảng của Bồ Tát Quán Tự Tại, tượng trưng cho tinh thần từ bi, sự hiểu biết bằng trực giác (compréhension intuitive, directe), bằng “trái tim” (intelligence du coeur), cho Xá Lợi Phất, tượng trưng cho trí tuệ khô khan, dựa trên lý luận (intelligence analytique). Ý nghĩa của sự giảng dậy này là : không bao giờ trí tuệ khô khan, dựa trên lý luận, dù bén nhọn tới đâu chăng nữa, có thể đưa tới trí tuệ Bát Nhã siêu việt, qua tới bên bờ bên kia, tức là giải thoát. Chỉ có cái nhìn sâu (compréhension profonde), bằng trực giác, bằng “trái tim”, mới đưa tới trí tuệBát Nhã, qua tới bên bờ bên kia. Ý nghĩa của chữ “tâm” trong Tâm Kinh cũng có thể hiểu được như vậy. Và chúng ta cũng không nên quên rằng Bát Nhã Tâm Kinh thuộc vào những bộ kinh Ðại Thừa, nên cũng không tránh khỏi thiên vị : nhân vật số một Ðại Thừa giảng giải cho nhân vật số một Tiểu Thừa, điều đó cũng không có gì là lạ…

    Về nội dung, thì hai câu đầu này hết sức quan trọng, bởi vì vào đề đã nói ngay tới tính chất Không (Shunyata) của năm uẩn (khandha), là cái cốt tủy của bài kinh.

    Nhắc lại là năm uẩn là : sắc (rupa, forme), thọ (vedana, sensations), tưởng (sanna, perception), hành (samkhara, volitions), thức (vinnana, conscience), là những cái gì mà họp nhau lại, tụ nhau lại (từ đó ra chữ agrégats) thành ra con người, thành ra cái ngã, cái ta. Nếu phân chia ra làm “thân” (corps) và “tâm” (esprit), (thật ra đạo Phật không có phân chia nhị đối như vậy), thì có thể nói một cách giản lược là sắc thuộc vào “thân”, và thọ, tưởng, hành, thức thuộc vào”tâm”. Ngày xưa, người ta cho rằng thân thể này là do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành; ngày nay, người ta biết rằng thân thể gồm có xương, thịt, da, đầu, bụng, tay chân, các bộ phận… muốn phân chia thế nào cũng được, cho tới mô, tế bào, phân tử, vừa phức tạp vừa liên đới với nhau.

    Câu đầu nói rằng “Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc”, đã làm cho chúng ta suy nghĩ rồi, nhưng câu sau lại nhấn mạnh thêm nữa : “sắc tức là không, không tức là sắc”. “Sắc = không, không = sắc”. Như vậy là quá rõ ràng rồi, không thể nào chối bỏ được khẳng định này. Nhưng vấn đề là khẳng định (affirmation) này cũng lại là một phủ định (négation). Nói rằng “sắc” là “không” cũng có nghĩa là “không có sắc”.

    Nhưng nếu hiểu “không” là “không có”, thì lại có vấn đề. Người ta sẽ có thể bẻ lại rằng : rõ ràng “có” rành rành như vậy, mà làm sao lại bảo rằng “không”, rằng sắc là “không”, rằng thọ, tưởng, hành, thức cũng là “không” ? Vậy thì ai đang viết đây, ai đang đọc đây, ai đang suy nghĩ đây ?

    Thật ra, nếu muốn làm sáng tỏ nghĩa chữ Không, thì chúng ta có hai cách :

    1. Phải đặt lại ngay câu hỏi : “Không cái gì ?” (Vide de quoi ?). Bởi vì nếu bây giờ có một người cất tiếng nói lên : “Không”, và chỉ có một chữ “không” thôi (trước đó không có gì), thì dĩ nhiên chữ “không” đó không có một ý nghĩa nào. “Không” phải là không một cái gì, chứ không thể nào “không” trống không được. Vậy thì “không” bắt buộc phải là không một cái gì, và “cái gì” đó chúng ta sẽ đề cập tới sau.

    2. Muốn hiểu chữ Không thì phải bắt đầu bằng chữ “có”. Quan niệm rằng mọi hiện tượng (phénomènes) (danh từ Phật là “pháp”, dharma) đều có thật, gọi là “tánh hữu”. Ðó là quan niệm thông thường nhất. Người ta thường tin rằng mọi hiện tượng, mọi sự vật chung quanh cũng như chính bản thân mình, là có thật (réel), là có tự tánh (nature propre), là cố định (fixe), bất di bất dịch (stable, inchangé), là một thực thể biệt lập so với những hiện tượng khác (distinct, indépendant). Rồi từ đó chấp (s’attacher) vào cái “có” (tức là “chấp hữu”), rồi vướng mắc, khổ đau triền miên…

    Trong khi đó, theo tinh thần Bát Nhã, thì mọi hiện tượng trên thế gian (trong đó có chính mình) đều có “tánh Không”, nghĩa là không có thật, không có tự tánh, không cố định, luôn luôn chuyển đổi, và đều do duyên hợp thành. Không có hiện tượng nào có thể tách biệt riêng rẽ ra khỏi các hiện tượng khác, tất cả đều liên đới mật thiết với nhau.

    Nguồn gốc Phạn của chữ Không cũng giúp chúng ta hiểu thêm về khái niệm này. “Shunyata” = tánh Không (vacuité), “shunya” = không (vide), là từ chữ “svi” (= làm căng phồng lên) mà ra. Cái gì căng phồng lên thì bên trong thường trống rỗng. Chẳng hạn như cái “ta”, trông vẻ ngoài như căng phồng lên, “gồ ghề” lắm, do năm uẩn tạo thành, nhưng thật ra trống rỗng bên trong. Không có gì là cái “ta” ở giữa.

    Nhưng nói như vậy không có nghĩa là không có gì hết. Ðiều lầm lẫn lớn nhất hay gặp phải là hiểu Không là không có gì hết, là hư vô (néant). Chính vì hiểu sai lầm Không là không có gì hết, là hư vô, cho nên người ta mới gán cho đạo Phật là một chủ thuyết hư vô (nihilisme). Người Tây phương thường dịch chữ Không là “vide” hay “vacuité”, và thường dịch câu đầu của”Sutra du Coeur” là “La forme est le vide, et le vide est la forme”. Thiết tưởng nên dùng danh từ “vacuité” hơn, bởi vì danh từ “vide” (vừa là tĩnh từ) thường làm người ta hiểu lầm là không có gì, là hư không. Trong khi đó, “vacuité” là một cái gì tế nhị hơn, có thể gợi nên tính chất không có tự tánh, không cố định, không biệt lập, không có thật. Trong nghệ thuật Thiền, người ta hay vẽ một vòng tròn để diễn tả cái Không, nhưng phải hiểu đó là Không, chứ không nên hiểu là con số không, hay không có gì hết.

    Như vậy thì giáo lý vô thường (anicca), vô ngã (anatta), duyên khởi (paticca-samuppada) của đạo Phật đều nằm gọn trong một chữ Không!

    Tính chất không cố định, không thường còn của năm uẩn chính là vô thường, tính chất không có tự tánh, không là thực thể biệt lập, mà luôn luôn tương hữu với nhau (thiền sư Nhất Hạnh gọi là inter-être) chính là vô ngã, là duyên khởi. Vô thường, vô ngã liên quan mật thiết với nhau, chỉ cần một chữ Không cũng đủ diễn tả được điều đó. Xét cho cùng, nguồn gốc của tánh Không đã có từ giáo lý nguyên thủy của đức Phật, nhưng chỉ được phát huy một cách toàn diện với sự xuất hiện của tinh thần Bát Nhã và phái Trung Quán(Madhyamaka), cũng được gọi là Không phái (Shunyata vada).

    Nếu hiểu được chữ Không tức là hiểu được đạo Phật. Hành sâu được tánh Không, như Bồ Tát Quán Tự Tại, tức là vượt qua khỏi mọi khổ ách, là giải thoát, là giác ngộ.

    4. “Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”.

    = “Xá Lợi Tử, đó là tướng không của các pháp, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt”.

    Câu này tiếp nối câu trước : vì tất cả các pháp (hiện tượng) đều không cố định, cho nên sanh trở thành diệt, dơ trở thành sạch, thêm trở thành bớt, nóng trở thành lạnh, đẹp trở thành xấu, v.v. Và vì cái này trở thành cái kia, cho nên thực ra không có sanh không có diệt, không có dơ không có sạch, không có thêm không có bớt… Tất cả đổi thay không ngừng, tùy duyên mà xuất hiện dưới tướng này hay tướng khác. Hơn nữa, sanh diệt, dơ sạch, thêm bớt, tự chúng không phải là những thực thể, đó chỉ là những danh từ, những khái niệm, những biểu tượng mà con người tự tạo nên bằng cái tâm phân biệt của mình.

    Câu này cũng làm chúng ta nhớ tới “8 cái không” của ngài Long Thụ (Nagarjuna), trình bầy trong Trung Quán Luận (Madhyamika Shastra): “Không sanh không diệt, không thường không đoạn, không một không nhiều, không tới không đi” (ni production ni destruction, ni anéantissement ni persistance, ni unité ni pluralité, ni venue ni départ).

    5.”Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới”.

    = “Cho nên trong tướng không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới”.

    Về mặt ngôn ngữ, chúng ta nhận thấy tiếng Việt chỉ có một chữ “không” để chỉ danh từ “tánh Không” và trạng từ phủ định “không phải”, trong khi tiếng Hán phân biệt danh từ “không” (tánh Không) và những trạng từ phủ định “vô”, “bất” và “phi”. Ðó có thể là một trong những lý do dễ đưa chúng ta tới hiểu lầm về chữ Không trong đạo Phật.

    Trong danh từ Phật giáo, có 5 uẩn (agrégats), 6 căn (là 5 cơ quan giác quan và cơ quan tư tưởng = 5 organes des sens, et organe de la pensée), 6 trần (là 5 giác quan và tư tưởng = 5 sens, et la pensée), 12 xứ (là 6 căn cộng với 6 trần), và 18 giới (18 mondes). Tất cả đều không có gì là thực tánh, là cố định hết, tất cả đều tùy duyên mà ra.

    6. “Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc”.
    (Ở đây, đừng lầm chữ “diệc” với chữ “diệt”, “diệc” có nghĩa là “cũng”, “diệt” có nghĩa là “hủy diệt”).

    = “Không có vô minh, cũng không có hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc”.

    Như vậy có nghĩa rằng cái gì cũng là Không hết, ngay cả những điều căn bản trong giáo lý Phật, như Mười hai Nhân duyên (từ vô minh cho tới lão tử), Bốn Ðế (khổ, tập, diệt, đạo), mà người học Phật đã nghe đi nghe lại cho đến khi in sâu vào tâm khảm, và ngay cả cái trí tuệ chứng đắc mà người tu Phật vẫn hằng ao ước.

    Vậy là thế nào ? Nếu tất cả đều là Không, thì chẳng lẽ đạo Phật cũng là “không” hay sao ? Dĩ nhiên câu này không khỏi gây hoang mang, nghi vấn và xáo trộn trong đầu người học Phật.

    Nơi đây, chúng ta thấy tất cả sự thâm sâu vi diệu của tinh thần đạo Phật. Trong Kinh Bát Nhã, mỗi khi đức Phật thuyết giảng một điều quan trọng, ngài thường lặp lại : “Na punar yathocyate” (“Tuy nói như vậy, nhưng không phải là như vậy”). Bởi vì đức Phật muốn lưu ý người nghe rằng ngôn ngữ, danh từ chỉ là một phương tiện, và khi ngài lên tiếng nói đã là sai, đã tách rời khỏi sự thật, chỉ có thể đón nhận được bằng thực nghiệm, bằng trực giác. Trong suốt lịch sử triết học và tôn giáo, có lẽ chỉ có đức Phật là người duy nhất nói lên những lời như vậy.

    Ngài Long Thụ (Nagarjuna) cũng đã vạch rõ ra hai mức độ chân lý trong giáo lý đức Phật : tục đế (samvriti satya), tức là sự thật tương đối (vérité relative), theo quy ước (conventionnelle), và chân đế, còn gọi là đệ nhất nghĩa đế (paramartha satya), tức là sự thật tuyệt đối (vérité absolue), vĩnh cửu (éternelle), vượt khỏi khái niệm, ngôn từ (au-delà des concepts, du langage). Nhìn dưới khía cạnh tục đế, thì Mười hai Nhân duyên, Bốn Ðế có giá trị, nhưng nhìn dưới khía cạnh chân đế, thì Mười hai Nhân duyên, Bốn Ðế đều là không, nghĩa là không có tự tánh, không cố định. Sở dĩ đức Phật tạo dựng nên những điều đó, là để giúp cho chúng sanh diệt khổ, cũng như người thầy thuốc chế tạo ra liều thuốc để chữa cho người bệnh khỏi bệnh. Giáo lý đức Phật chỉ như cái bè dùng để qua sông, như ngón tay để chỉ mặt trăng. Ðó chỉ là một phương tiện, một giả thiết (prajnapti). Chấp vào đó, coi đó như là một sự thật cố định, là sai lầm vậy.

    Theo quan niệm Ðại Thừa, thì đạo Phật chia ra làm 3 thời kỳ :

    1- Sơ kỳ Phật giáo : giải thích về “Bốn Ðế”, “Mười hai Nhân duyên”, còn thiên về hình thức (formel), phân biệt có không, thiện ác, v.v. Kinh điển là của Phật giáo Nguyên Thủy, chủ yếu là Tam Tạng Pali.

    2- Trung kỳ Phật giáo : nói về “tánh Không”(shunyata) tức là tinh thần Bát Nhã. Kinh điển thường là kinh điển Ðại Thừa (bộ kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða, trong đó có kinh Kim Cương và Bát Nhã Tâm kinh).

    3- Hậu kỳ Phật giáo : nói về lý “Chân Không diệu hữu”. Kinh điển là những kinh điển Ðại Thừa về sau.

    (Bàn về hậu kỳ Phật giáo, về thuyết Chân Như (tathata), vượt khỏi khuôn khổ của bài này. Nhưng chúng ta có thể nói sơ qua rằng thật ra tánh Không với Chân Như là một. Không cũng là có, mà có cũng là Không. Sự thật nó như vậy (“như thị”, ainsité, tel quel), và chỉ là như vậy, không thể nào nhận định, diễn tả được bằng khái niệm, ngôn từ. Niết Bàn là luân hồi và luân hồi là Niết Bàn, giải thoát là phiền não và phiền não là giải thoát. Sự phá chấp trở nên toàn diện).

    Ðối với Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada), thì chỉ có sơ kỳ Phật giáo, nghĩa là những lời dậy của đức Phật Thích Ca được chép lại trong Tam Tạng kinh điển, mới là trung thực, là đáng tin cậy. Nhưng đối với Phật giáo Ðại Thừa (Mahayana), thì chính những lời dậy đó (Bốn Ðế, Mười hai Nhân duyên) thuộc vào tục đế, và như vậy không có thực tướng, không cố định. Ðại Thừa muốn phá luôn cả cái chấp vào những tục đế đó, bằng “tánh Không”, để cuối cùng đi tới chân đế bằng con đường trực giác.

    Nhưng trong Bát Nhã Tâm Kinh, “không có trí tuệ, mà cũng không có chứng đắc”. Nghĩa là khi người theo Bồ Tát hạnh dùng 6 Ba La Mật để cứu độ chúng sanh (trong đó có trí Ba La Mật là căn bản), thì thật ra cũng không có trí mà cũng không có đắc. Trong kinh cũng có câu : “Bồ Tát mà biết mình là Bồ Tát, thì không phải là Bồ Tát”. Bởi vì theo đuổi mục đích trở thành Bồ Tát, biết mình là Bồ Tát, thì tức là còn mang tâm phân biệt, còn chấp trước, và chưa được giải thoát thực sự. Ở đây, phá luôn cả cái chấp trí đắc của Bồ Tát.

    Tinh thần Bát Nhã như vậy là tinh thần phá chấp (non attachement, lâcher-prise), phá chấp thực sai, phải trái, thiện ác, xấu tốt, sạch dơ, bởi vì tất cả là tương đối, đều là đối đãi, không cố định, tùy duyên mà chuyển biến. Những câu “Vạn pháp giai Không”, “Cửa Thiền là cửa Không”, cũng nằm trong ý nghĩa đó.

    Ðể trả lời người hỏi còn nặng tinh thần chấp trước, các vị thiền sư ngày xưa thường giơ 2 ngón tay lên, có nghĩa là người hỏi còn kẹt ở đối đãi hai bên, tức là chưa thấu được đạo. Hoặc là giơ một ngón tay lên ở giữa, nghĩa là câu trả lời nằm ở con đường Trung đạo, không phải là “có” mà cũng không phải là “không”.

    Nhưng thật ra, chỉ có giữ im lặng mới là gần với sự thật. Như sự im lặng sấm sét của đức Phật Thích Ca, còn được gọi là Mahamuni, đức Ðại Tĩnh Mặc (Mâu Ni = tĩnh mặc). Hay sự im lặng hùng hồn của Bồ Tát Duy Ma Cật (Vimalakirti), người đệ tử cư sĩ đầy từ bi và trí tuệ của đức Phật, trước câu hỏi về bản tánh của sự vật.

    7. “Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Ðề Tát Ðỏa y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề”.

    = “Vì không sở đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Ða, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát Nhã Ba La Mật Ða, đạt đạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”.

    Không sở đắc có nghĩa là không vướng mắc vào một điều gì, đạt được cái tâm như như, cho nên Bồ Tát nương theo tinh thần Bát Nhã, xa lánh tất cả những mơ tưởng sai lầm, và đạt được Niết Bàn. Chính là vô đắc mà đắc, không tìm mà đạt, đó mới là tinh thần Bát Nhã.

    8. “Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Ða, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
    Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Ða chú tức thuyết viết : Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Ðề Tát Bà Ha”.

    = “Nên biết, Bát Nhã Ba La Mật Ða là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thẩy khổ, chân thật không sai.
    Vì vậy nói chú Bát Nhã Ba La Mật Ða, liền nói chú rằng : Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Ðề Tát Bà Ha “.

    Ðây nói về Bát Nhã Ba La Mật Ða, như một câu thần chú (mantra)mang một sức mạnh vô biên, có khả năng tiêu trừ được tất cả những khổ đau.

    Sự xuất hiện của câu thần chú này vào cuối bài kinh vẫn còn là một nghi vấn cho những nhà Phật học. Có những nhà Phật học cho rằng vào lúc những bản cuối của Bát Nhã Tâm Kinhđược soạn thảo (thế kỷ thứ IV sau CN), thì Mật tông (tantrisme) đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ nơi dân gian, và đã bắt đầu xâm nhập vào Phật giáo. Ðiều đó giảng nghĩa tại sao bài Bát Nhã Tâm Kinh lại được kết thúc bằng một câu chú. Nguyên văn chữ Phạn là : “Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha”, có nghĩa là : “Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên bờ kia, hoàn toàn vượt qua, hoàn toàn giác ngộ !” (theo thiển ý, nếu muốn đọc như một câu chú, thì nên giữ nguyên văn chữ Phạn, chứ dùng chữ Phạn phiên âm ra chữ Hán “Yết đế yết đế…” thì thật là vô nghĩa, cũng không khác gì gọi La Fontaine là Lã Phụng Tiên, Napoléon là Nã Phá Luân, v.v.).

    Nhưng còn một cách hiểu câu chú này, theo tinh thần Thiền, là : đọc câu chú này không phải để hiểu, mà để chỉ thẳng vào tâm, cái tâm không không phân biệt, không ý niệm. Khác với phần đầu dùng ngôn từ, ý niệm để giảng giải, câu chú kết thúc này đánh thẳng một chùy vào trực giác, vào cái tâm đã mở rộng để sẵn sàng đón nhận trí tuệ vượt khỏi ngôn từ. Ðó là cách giảng của thiền sư Thanh Từ, và thầy có dẫn hai thí dụ là bài kệ của thiền sư Trì Bát đời Lý, dòng Tỳ Ni Ða Lưu Chi, và bài tán Tuệ Trung Thượng Sĩ bởi quốc sư Tông Cảnh, đời Trần, cả hai đều kết thúc bằng câu “Án tố rô tố rô tất rị”.

    Kết luận

    Ðọc và nghiền ngẫm Bát Nhã Tâm Kinh giúp chúng ta hiểu thêm về chữ Không (Shunyata)là điểm căn bản và khó hiểu nhất trong đạo Phật.

    Phải hiểu đúng chữ Không, mới đúng là mở vào cửa Thiền, cửa Phật. Nhưng hiểu không cũng chưa đủ, còn phải tu chứng nữa, còn phải áp dụng trong cuộc sống hàng ngày, theo tiến trình “văn, tư, tu” (học hỏi, suy nghĩ, tu tập)…

    Không không có nghĩa là không có gì, là coi tất cả cuộc đời như một con số không lớn, là mình phải buông xuôi tất cả, phải chấp nhận tất cả, hay chối bỏ tất cả. Không có nghĩa là có, nhưng cái có như vậy và chỉ như vậy thôi, không có những gì tâm trí con người thêm bớt vào đó, nghĩa là những ảo tưởng gây nên bởi chính mình.

    Mục đích của Không là để phá cái “có”, không phải là cái “có” như vậy thoát khỏi mọi ý niệm, ngôn từ, nhưng mà là cái “có” tạo nên bởi chính mình, và làm cho mình chấp vào đó. Tinh thần Bát Nhã là tinh thần phá chấp, phá chấp hữu, phá chấp ngã, phá chấp thường, phá chấp pháp, phá chấp trí đắc, và phá ngay cả cái chấp không.

    Không phải là một sự tình cờ khi lục tổ Huệ Năng và vua Trần Thái Tông đều nghe tới câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cương, mà bỗng nhiên giác ngộ. Không để tâm vướng mắc vào đâu, tức là thấu đạt cái Không, là giải thoát.

    Tất cả những công án, bài thơ, câu kệ của các vị thiền sư từ xưa tới nay vẫn chỉ phảng phất tinh thần Không huyền diệu. Cũng như bài thơ sau đây của thiền sư Hương Hải (dòng Trúc Lâm, thế kỷ thứ XVII-XVIII, đời nhà Nguyễn) :

    “Nhạn quá trường không,
    �nh trầm hàn thủy.
    Nhạn vô di tích chi ý,
    Thủy vô lưu ảnh chi tâm”.

    Tạm dịch là :

    “Nhạn liệng trên không,
    Ánh chìm đáy nước,
    Nhạn không lưu dấu vết,
    Nước chẳng giữ bóng hình”.

    Cái đặc điểm của con người là hay muốn nắm giữ, muốn theo đuổi một cái gì không bao giờ nắm giữ được. Nhìn con nhạn lướt qua với chiếc bóng lung linh trên mặt nước, mà đã muốn lưu lại bóng hình trong phim ảnh, trong tranh vẽ, trong lời thơ. Trong khi đó, nhạn chỉ bay qua, không có ý để lại dấu vết, nước chỉ phản ánh lại, không có tâm giữ lại bóng hình. Bóng hình đó có hay không cũng chỉ là trong ánh mắt của người nhìn, là trong tâm của người thưởng ngoạn. Nói là không có thì cũng không đúng. Có, nhưng sự thật là không có gì khác, không có gì để nắm bắt, để ghi lại, để tiếc nuối.

    Có bình dị thản nhiên như vậy, thì cũng chẳng khác mấy gì Không.

    Trịnh Nguyên Phước
    6/1999

    Tài liệu đọc thêm

    1. EDWARD CONZE, Le Bouddhisme, Editions Payot & Rivages, coll Petite Bibliothèque, 1952-1995
    2. PETER HARVEY , Le Bouddhisme – Enseignements, histoire, pratiques, Editions du Seuil, 1993
    3. THÍCH NHẤT HẠNH, Le coeur de la compréhension – Commentaires sur le Soutra du Coeur de la Prajnaparamita, Village des Pruniers, 1990
    4. THÍCH THANH TỪ , Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh giảng giải, http://www.thuong-chieu.org/
    5. THÍCH THANH TỪ, Thiền sư Việt Nam, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 1995
    6. DAISETZ TEITARO SUZUKI, Manuel de Bouddhisme Zen, Editions Derby, 1999
    7. CHOGYAM TRUNGPA , Pratique de la voie tibétaine, Editions du Seuil, coll Points Sagesse, 1976
    8. ALAN W. WATTS, Le Bouddhisme Zen, Editions Payot, coll Petite Bibliothèque, 1969

    Thích

  7. Về đạo Phật và khoa học xin có mấy bình luận sau:
    – Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 có nói: Phật giáo là Khoa học về Tâm, quan hệ giữa Tâm và Vật, nhưng chủ yếu là về Tâm. Mục đích của đạo Phật là giúp con người thoát khỏi Vô minh và do đó thoát Khổ. Đức Phật cũng có đề cập đến vũ trụ luận nhưng rất sơ lược và Ngài thường lảng tránh trả lời các câu hỏi liên quan đến vấn đề này.
    – Khoa học tìm hiểu chủ yếu về các quy luật về Vật. Khoa học sử dụng tư duy logic để nghiên cứu vũ trụ, vật chất, năng lượng…Khoa học là một cách tiếp cận tốt với hiện thực khách quan, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Tuy nhiên khoa học không thiện cũng không ác. Bom nguyên tử và các vũ khí hủy diệt hàng loạt là thí dụ tốt cho việc con người đã sử dụng sai lầm các thành tựu khoa học như thế nào. Khoa học không phải là vạn năng. Có nhiều câu hỏi khoa học không trả lời được. Trong một số linh vực thì các nhà khoa học cũng chẳng khác gì mấy ông thày bói mù sờ voi mà thôi.
    – Tôn giáo, đức tin và khoa học đều cần được phát triển trong mỗi một con người.

    Thích

  8. Thưa thầy, có một người bạn của em có ý kiến như sau khi đọc bài của thầy trên bookhunterclub.com. Em vẫn đang tìm hiểu để có 1 lời giải thích cho bạn, song, em nghĩ cách tốt nhất là gửi tới thầy và được nghe ý kiến từ thầy.

    “Đầu tiên theo em biết là chuyện sờ voi này không có trong Kinh Đại Bát Niết Bàn

    Thứ hai Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa không phải do Phật thuyết mà do Tổ của Đại Thừa thuyết

    Thứ ba là người viết “kẹt nghĩa” khi tìm hiểu kinh này nên dẫn đến cho rằng cả thế giới này là ảo tưởng. Ai bảo thế giới này ảo tưởng thử lấy tay đập vào mặt xem có đau không.

    Thực ra ý nghĩa của kinh Bát Nhã nên được hiểu thế này: Khi chưa tu thì thấy núi là núi, sông là sông. Khi mới tu thì thấy núi không phải là núi, sông không phải sông. Khi tu thành rồi thì thấy núi đúng là núi mà sông đúng là sông. Người viết có lẽ bị kẹt ở giai đoạn 2 đó: “thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông”.

    Cái sự thấy đầu tiên chính là cái sự thấy của tất cả mọi người. Con người nhìn vào bất cứ sự vật, sự việc gì cũng đều chỉ nhìn được một phần sự thật rồi sinh ra ảo tưởng trong tâm không đúng với thực chất của sự vật, sự việc đó. Chính vì nhìn nhận sai lầm nên con người mới sinh ra tham, sân, si để rồi khổ sở. Đến khi giải thoát rồi con người mới thật sự nhìn thấy bản chất của sự vật, sự việc “như chúng đang là”. Cho nên cái sự nhìn thứ 3 chính là nhìn đúng như sông, núi đang là.

    Trong bài viết có trích: ““Chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức , vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý , vô sắc thanh hương vị xúc pháp…”

    Ấy là sau khi giác ngộ rồi, ta sẽ thấy rõ bản chất của sự vật sự việc. Vô sắc, thọ, tưởng, hành thức,… Những cái sắc, thọ ,tưởng, hành… này đều chỉ là ảo tưởng của con người. Còn sự vật sự việc thì nó vẫn có. Núi thì vẫn có núi, sông thì vẫn có sông đúng “như chúng đang là” chứ không phải là giác ngộ rồi thì không thấy cái gì nữa Chỉ đơn giản là phá bỏ áo tưởng thôi”

    Đã thích bởi 3 người

  9. Chọn bốn người mù rồi thêm một người cho đủ năm (ngũ uẩn). Sau khi rờ…dái voi thì người ấy cho rằng con voi giống…quả bưởi thanh trà! Thật là khôi hài, thế nhưng tổng hợp lại các góc nhìn thì có thể cho ra một vật thể tổng hợp gần với sự thật nếu xác định ngoài hình dáng còn có thêm vị trí của nó!

    Thích

  10. Thưa Giáo sư,
    Cháu tự hỏi, chúng ta bị giới hạn bởi THỰC TẠI, vậy khi kết luận toàn bộ THỰC TẠI là CÓ hoặc KHÔNG liệu có nghịch với Định lý Bất toàn của Godel không nhỉ?
    Theo cháu thì cần phải vượt ra khỏi Thực tại mới đủ dữ liệu để kết luận. Còn bây giờ việc lựa chọn CÓ hoặc KHÔNG là một thái độ của đức tin để mang lại cho cuộc sống một ý nghĩa!
    Cháu thì cháu chọn CÓ, vì nếu chọn KHÔNG thì những vất vả, đau khổ của cha mẹ cháu đã sinh ra và nuôi dưỡng cháu cho đến hôm nay đều là ảo! Mà như vậy thì vô lý quá! Những vất vả, đau khổ đó là RẤT THẬT? Và tất cả là ảo thì cháu sẽ không tiếp tục sống làm gì, vì nó thật vô lý!

    Thích

    • Cám ơn cháu Linh Giang,
      Cháu hỏi nhưng thực ra đã trả lời. Tư duy của cháu rất sâu sắc. Câu trả lời của cháu không mâu thuẫn gì với Định lý Bất toàn cả. Định lý này giúp chúng ta hiểu thực tại hơn. Thực tại là CÓ, chỉ có điều chúng ta không bao giờ hiểu thực tại đó một cách đầy đủ, và cháu rất đúng khi nói rằng phải có đức tin để mang lại cho cuộc sống một ý nghĩa. “Phúc cho ai không thấy mà tin”, câu nói bất hủ đó của Chúa Jesus chứa đựng những ý nghĩa sâu xa và rất phù hợp với tư duy của cháu. PVHg

      Đã thích bởi 1 người

  11. Tat ca cac vi deu viet rat hay va co suy nghi dung dan. Tuy nhien suy luan nhieu qua cung de bi lac loi va dan den sai lam. Toi cung da doc cuon sach “ Dao cua Vat Ly “ cua Fritjob Capri do ong Nguyen Tuong Bach dich, rat hay va xin gioi thieu vi no rat gan voi nhung van de quy vi de cap o tren.

    Thích

Bình luận về bài viết này